828 – Con đường lên cao nguyên Lang Bi-an

tPo4lzTAk3gBfo94aK4OQANhững ngày cuối tháng 4 cách đây đúng 29 năm, nhân có chuyến công cán của bác sỹ Trâm, Viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang vào TP Hồ Chí Minh họp, nhóm làm phim dịch hạch được kết hợp theo xe vào Sài Gòn.

Con đường chúng tôi đang đi, thời Ông Năm Yersin mới đặt chân tới Việt Nam, di chuyển đâu có thuận tiện như bây giờ.

Trước khi trở thành một nhà bác học danh tiếng và dành toàn bộ tâm lực cho nghiên cứu khoa học, Yersin đã để nhiều năm lao vào các cuộc thám hiểm.

Những trang nhật ký hiện còn lưu trữ ở Pasteur Nha Trang cho thấy, từ hạ tuần tháng 10 năm 1890, bác sĩ Yersin làm y sĩ phục vụ trên tuyến đường Sài Gòn-Manila. Đến tháng 4 năm 1891, ông chuyển sang làm y sĩ trên tàu “Saigon”, hoạt động trên tuyến đường biển Sài Gòn – Hải Phòng. Cuộc sống trên tàu đối với một y sĩ trẻ, có lẽ buồn tẻ. Để giết thì giờ, Yersin tập làm quen với khoa hàng hải. Ông đặt mua từ Pháp một máy kinh vĩ (théodolite) và trong lúc rảnh rỗi, ông tập sử dụng máy trên bến Nhà Rồng ở Sài Gòn.

Nha Trang là một trong những trạm dừng của tàu “Saigon”. Ngay từ lúc đầu, cảnh đẹp của Nha Trang đã hấp dẫn Yersin. Rặng núi cao ở chân trời phía Tây quyến rũ, khiến chàng bác sỹ trẻ nảy sinh dự định dùng đường núi để đi từ Nha Trang đến Sài Gòn trong vòng mười ngày!

Ngày 29.7.1891, được phép của thuyền trưởng tàu Sài Gòn, Yersin và người hầu bắt đầu chuyến thám hiểm đầu tiên. Nghe lời khuyên của công sứ Pháp ở Nha Trang, Yersin dùng ngựa đi vào Phan Rang. Mục tiêu khám phá là rặng núi cao mây phủ phía tây. Nhưng ông đã phải loay hoay suốt dải đồng bằng hẹp miền trung như thế để dò la và tìm lối đi thuận tiện cho cuộc hành trình.

Chuyến thám hiểm bất thành năm 1891 không làm Yersin nản chí, ngược lại còn kích thích lòng say mê mạo hiểm nơi ông. Cuối năm 1891, ông rời hãng tàu Messageries Maritimes để thực hiện chuyến đi của mình. Ông tiếp tục chuyến thám hiểm như thế kéo dài tới bốn nǎm ở miền trung. Ông đã tìm ra thượng nguồn sông Đồng Nai và khám phá cao nguyên Lâm Viên, nơi ông đề nghị xây dựng một đô thị, đó chính là Đà Lạt ngày nay.

Vào tới Thành Phố Hồ Chí Minh, nhóm chúng tôi được giới thiệu làm việc với bác sỹ Phạm Xuân Long, người trực tiếp theo dõi các phác đồ điều trị và hiện trạng của bệnh dịch hạch của Viện Pasteur Sài Gòn ở các tỉnh phía nam. Thành Phố HCM hồi đó còn khó khăn lắm. Dân chúng vẫn phải ăn bo bo độn cơm. Nghèo đói, dịch bệnh, trong đó có dịch hạch vẫn lẩn quất quanh đây. Tránh gây hoang mang cho dân chúng và du khách dịch bệnh không bao giờ được công bố. Vì thế việc làm phim của chúng tôi không bị cản trở mà cũng chẳng được hoan nghênh.

Trước bế tắc đó, bác sỹ Phạm Xuân Long rỉ tai tôi: “muốn cải thiện được tình hình, các ông nên nên vận động thuyết phục được hai trưởng lão hàng đầu về dịch tễ là Hoàng Thuỷ Nguyên và Đặng Đức Trạch, các ông ấy sẽ bay từ Hà Nội vào dự Hội nghị Tổng kết công tác vệ sinh phòng dịch toàn quốc ở Sài Gòn lần này đấy! Nếu có ý kiến ủng hộ của hai bậc cây đa cây đề đầu ngành, thì đảm bảo các ông sẽ thuận lợi hơn…”.

Tôi liền gặp bác sỹ Trịnh Quân Huấn và bác sỹ Lê Diên Hồng (*) vừa bay từ Hà Nội vào chuẩn bị cho hội nghị để nhờ vả. Đốc tờ Hồng là Cố vấn Khoa học cho phim, nên ông nhận lời ngay. Sau hội nghị, buổi tối hôm đó, bác sỹ Phạm Xuân Long hẹn tôi, Sinh, Khang và Nhung tới chơi ở nhà riêng ở đường Điện Biên Phủ. Vừa trông thấy tôi, Phạm Xuân Long đã lắc đầu buồn rầu nói, trước lúc khai mạc hội nghị, trong cuộc gặp gỡ xã giao giữa các tai to mặt lớn trong ngành thì Lê Diên Hồng có đưa ra bàn việc giúp đỡ cho đoàn làm phim dịch hạch của các ông. Nhưng không hiểu sao cụ Trạch lại vờ như không nghe thấy và đưa chuyện bóng đá ra bình luận sôi nổi. Khiến ông Hồng cụt hứng mà không bàn được câu nào nữa. Sau này tôi mới biết vị GSTS danh tiếng về vi trùng (Đặng Đức Trạch) này lại là bạn rất thân với khắc tinh Lương Đức của tôi. Không biết có phải vì như vậy mà công việc của chúng tôi bị ghẻ lạnh hay không? có lẽ chỉ có các vị ấy mới trả lời được câu hỏi này. Trước tình hình đó, tôi đành phải áp dụng kiểu “chiến tranh du kích” mà “trường kỳ kháng chiến“ vậy.

Càng giáp ngày 30 tháng tư, Sài Gòn bận lo kỷ niệm 10 năm ngày giải phóng, nên chẳng cơ quan nào nhận lời giúp chúng tôi quay phim, ngay cả khách sạn bình dân Bến Nghé, nơi quen thân với hãng phim như người nhà cũng từ chối, vì chật kín khách thập phương. Chúng tôi lang thang các nhà trọ với cơm bụi bà Cả Đọi (32 Ngô Đức Kế) mà chẳng làm được việc gì, đành tính nước “mã hồi“.

Sau khi tiễn chị Nhung, là thu thanh của phim ra Hà Nội nhận công việc mới, chúng tôi theo xe (vừa tan hội nghị) của Viện Pasteur Đà Lạt lên cao nguyên Lang Bi-an. Cảnh quay ở Pasteur Đà Lạt không nhiều. Nhưng tránh Sài Gòn lúc này là giải pháp hợp lý nhất cho tình huống bất lợi đang diễn ra.

Từ Sài Gòn theo quốc lộ 20 chừng 300 cây số là đến Đà Lạt. Con đường hai bên ngút ngàn rừng thông hai lá, ba lá. Vượt qua mấy cung đường dốc đứng tai ù, xe đã đưa chúng tôi tiến dần vào thành phố. Vào hạ, nắng vàng ươm trên con đường quanh co. Hương thông thơm hăng hắc, những tán thông xanh đu đưa trên nền trời và như nô đùa cùng nắng chiều trên mặt đường lấp loáng xe bon. Xế chiều, Đà Lạt bất chợt hiện ra. Xa xa bảng lảng sương trong ánh hoàng hôn và gió ngàn vi vu. Phố núi thoắt ẩn hiện sau những khúc quanh. Đà Lạt nom như một bức tranh thủy mạc. Mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho Đà Lạt qúa nhiều ưu ái hay sao mà nơi đây không khí mát mẻ quanh năm với rừng thông bạt ngàn, những vạt hoa cúc qùy như bất tận hai bên đường đi. Xen kẽ vô vàn biệt thự lô nhô trên các sườn đồi cao thấp theo phong cách kiến trúc của Âu Châu tọa lạc sau các tán thông già.

Hotel  Sofitel Dalat Palace

Hotel Sofitel Dalat Palace

Lên Đà lạt lần này là lần thứ 3, cách đây gần 5 năm, đi chung với đoàn thám hiển Intercosmos tôi đã được ngự trong những Hotel sang trọng nhất – Sofitel Dalat Palace, nằm trên qủa đồi nhìn xuống Hồ Xuân Hương thơ mộng. Lên Đà Lạt lần này, chúng tôi được bố trí ở nhà khách của Viện Pasteur. Để tránh làm phiền, tôi bàn với Sinh và Khang chỉ ngủ trọ tại nhà khách. Còn ăn thì kéo nhau ra chợ Đà Lạt ăn cơm bụi. Vừa rẻ lại vừa hợp khẩu vị. Cũng món rau xanh, mà sao ở đây ăn cảm thấy tươi ngon lạ. Do thiên nhiên cao nguyên trong lành quá, hay món rau ở Đà Lạt hơn hẳn mọi nơi khác. Có lẽ do cái không khi dịu mát và còn cả leo dốc cuốc bộ nhiều, mau đói, nên chúng tôi cảm thấy ngon miệng hơn chăng?

Tranh thủ thời gian lưu lại ở cao nguyên Lang Bi-an chờ cho qua cái dịp lễ lớn 30 tháng tư, tôi lại say mê với các đống tư liệu (có lẽ ít người để ý) mô tả về những chuyến thám hiểm cao nguyên Lâm Viên của ông Năm-Yersin hồi đầu thập niên 90 của thế kỷ 19, được lưu giữ khá đầy đủ ở ngay trong Chủng viện Pasteur Đà Lạt này.

Đây rồi, trong một ghi chép tôi đọc được: Ngày chủ nhật 3.8.1891, Yersin cùng với người hầu và bốn phu khuân vác đi vào vùng núi. Lương thực mang theo chỉ có vài hộp thịt bò muối và vài hộp bánh quy khô, cộng thêm một số lương thực do các quan chức người Việt ở Phan Rí cung cấp thêm. Lúc đó đang vào mùa có gió mùa Tây Nam, mỗi ngày đều có mưa rào lớn. Yersin đi theo đường mòn từ làng Kalon ở chân núi qua Ta Ly đến Ta La (vùng phụ cận Djiring). Nơi đây, ông thấy không thể tiếp tục đi được nữa, vì cuộc hành trình đòi hỏi ít nhất từ 9 đến 10 ngày đi bộ trong khi đã cận ngày ông phải lên tàu đi Bắc Kỳ. Mặt khác, ông đang lâm vào tình trạng khá tồi tệ: giày vớ rách bươm, dáng vẻ mệt mỏi. Do đó, ông quyết định đi đến địa điểm gần nhất là Phan Thiết: từ đó ông trở về Nha Trang bằng ghe và kịp lên tàu đi Quy Nhơn.

Trên thực tế, có một người Việt tên là Nguyễn Thông (1827-1884) và hai người Pháp là Néil và Albert Saptens đã từng đặt chân tới cao nguyên Lang Bi-an, tuy nhiên sự hiện diện của họ không để lại một dấu ấn gì. Chuyến đi lịch sử của nhà thám hiểm trẻ tuổi Yersin vào cuối năm 1891 từ làng Kalon sát chân dãy Trường Sơn Nam (nay thuộc Phan Sơn, Bắc Bình, Bình Thuận) đã băng qua vùng rừng núi đầy hiểm trở Tánh Linh, Phan Rí, Phan Rang… kéo dài nhiều tháng để rồi dừng chân ở mảnh đất đầy thơ mộng Đà Lạt.

Năm 1897, ông đề xuất với Toàn quyền Đông Dương, Paul Dumer, chọn Đà Lạt làm điểm xây dựng trạm điều dưỡng. Sau đó là chuyến đi cao nguyên cùng với vị Toàn quyền Đông Dương, để thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.

Ngày xưa bác sĩ Yersin đi bằng ngựa cùng hai người địa phương dẫn đường. Trong hồi ký Bảy tháng nơi xứ Thượng, bác sĩ Yersin có kể lại việc gặp gỡ hai nhóm người Việt trên đất Lâm Đồng. Đó là nhóm của Tong Vit Ca, một người Việt nhận khoán việc thu thuế ở vùng cao nguyên; và nhóm chính trị phạm do Thouk cầm đầu. Tài liệu của Yersin cho thấy người Việt vào thời đó (nhất là những người thu thuế, buôn bán, trộm cướp, chính trị phạm…) vẫn thường xuyên lui tới vùng cao nguyên bên dưới, xung quanh Đà Lạt (với độ cao trung bình từ 900 đến 1000m).Yersin vốn có thói quen viết thư cho mẹ mỗi ngày. Ông kể cho mẹ nghe tất cả những chuyện đang xảy ra, cũng nhờ những bức thư này mà cuộc đời của ông đã được biết đến một cách sống động và chi tiết. Chuyến thám hiểm đầu tiên năm 1891 tìm ra cao nguyên Di Linh cũng đã được lưu giữ từ những lá thư này…. khối núi cao nhất Di Linh, Braian 1.196m và qua thung lũng suối Da Riam nữa là đến bến đò qua lòng hồ Da Riam về thị trấn Di Linh.

Từ 28.3.1892 đến 9.6.1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên Daklak để đến Stung Treng- nằm bên bờ sông Mékong (thuộc địa phận nước Cam-pu-chia). Cuộc thám hiểm này được thực hiện theo yêu cầu của đại úy Cupet, một thành viên của phái bộ Pavie.

Tháng 10 năm 1892, Yersin đi Paris để đưa các kết quả khảo sát cho đại úy Cupet, đồng thời tìm cách vận động để được tiếp tục thám hiểm. Nhờ sự giúp đỡ của một số người quen (nhất là nhà bác học L.Pasteur và người bạn thân của ông là giáo sư Emile Duclaux), Yersin được Bộ giáo dục Pháp cấp kinh phí để thực hiện một nhiệm vụ khảo sát khoa học.

Từ nước Pháp trở lại Sài Gòn vào tháng 1 năm 1893, Yersin đến gặp toàn quyền De Lanessan. Ông này chính thức giao cho Yersin nhiệm vụ khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên sâu vào vùng người Thượng và kết thúc ở một địa điểm thuận lợi trên bờ biển Trung Kỳ. Ngoài ra, Yersin còn phải tìm hiểu về tài nguyên trong vùng: lâm sản, khoáng sản, khả năng chăn nuôi v.v… Địa bàn thám hiểm được chỉ định là “một vùng ở Nam Trung Kỳ, nằm giữa bờ biển và sông Mékong, là vùng đầu nguồn của các con sông Đồng Nai và Sé-Bang-Kane”.

Cùng đi với Yersin có ông Wetzel, một trong những người gác rừng giỏi nhất ở Nam Kỳ, cũng là một thợ săn voi và tê giác rất gan dạ. Về phía nhân sự người Việt, có bốn người dân Sài Gòn: Bảy (người đã từng đi thám hiểm cùng Yersin năm 1892) và ba người phụ bếp do chính ông này chọn. Nhưng do chuyến đi quá dài nên sau đó ông Wetzel không thể tham gia, chỉ còn mình ông Năm và các người dẫn đường tiếp tục cuộc hành trình.

Vật dụng được đựng trong nhiều chiếc rương nhỏ, chủ yếu bao gồm những hàng nhu yếu phẩm dùng để trao đổi với ngưới Thượng. Về dụng cụ thám hiểm, Yersin mang theo một máy kinh vĩ (théodolite) và ba thời kế (chronomètre) nhằm để xác định vị trí trong khi đi thám hiểm. Yersin cũng mang theo một số thuốc chủng bệnh đậu mùa (sởi) để chủng ngừa cho dân các vùng ông đi qua.

Ngày 14.4 đoàn rời Lao Gouan tiến về phía Bắc, vượt dòng Da Gnine (tức Da Nhim) – một trong hai nhánh chính của sông Đồng Nai, sau một ngày đi bộ, Yersin đến làng Rioung, nằm gần nhánh thứ hai của sông Đồng Nai: Da Dong (tức Da Dung). Rioung (có thể là làng Riong Bolieng ngày nay) là một làng Thượng chuyên sống về nghề rèn, một điểm giao lưu quan trọng vào thời đó. Cao nguyên xung quanh Rioung trơ trụi, những đàn nai đông đảo thường chạy qua đó. “Nếu từ Rioung, người ta tiếp tục đi về phía Bắc, điạ hình sẽ trở nên rất nhấp nhô và dâng cao dần cho đến núi Lang Bian. Núi này, cao hơn 2.000m, đã được các ông Néis và Humann thám sát. Đó là nơi phát nguyên của sông Đồng Nai”.

Yersin hoãn cuộc khảo sát núi Lang Bian vào giai đoạn sau và tiếp tục đi về phía Tây Nam, với sự hướng dẫn của Tong Vit Ca.

Để đi đến Ta La, đoàn thám hiểm phải đi qua một số làng lớn (Kla Kar, Con Tan và La Ra) – nằm giữa một vùng cao nguyên trơ trụi phủ toàn cỏ tranh.

Một ngọc thác trên thương nguồn sông La Ngà

Một ngọn thác trên thương nguồn sông La Ngà

Ngày 25.4 Yersin đến Ta La, diện mạo của cao nguyên thay đổi. Cao nguyên bao gồm nhiều đồi lúp xúp nhô lê giữa các thung lũng nhỏ. Bên dưới ruộng lúa hoặc thảm cỏ mịn, xanh tốt mặc dù đang là mùa khô hanh. Rừng thông phủ dày trên các ngọn đồi. Làng mạc thưa thớt nằm ngoạn mục ven các sườn đồi. Ông chánh tổng cư trú ở Ta La, nơi có ngôi nhà làng dành cho khách lạ. Cạnh đó là dòng Da Riame, một chi lưu của sông La Ngà. Dòng nước này tưới và làm phì nhiêu các ruộng lúa, chảy quanh co…

Ta La nằm ở vùng phụ cận Djiring (Di Linh) là nơi Yersin đã từng đến vào năm 1891. Người Thượng ở vùng này khá giàu, có những đàn trâu đông đến vài trăm con. Họ có tục lệ đâm trâu vào những dịp lễ lớn, cứ mỗi con trâu bị giết, lại dựng cạnh nhà một cây nêu bằng tre cao khoảng 20 mét, được neo chặt bằng những sợi dây chão làm bằng mây trang trí cờ đuôi nheo. Trong một vài làng, Yersin đếm được tới 30 cây nêu. “Nhìn từ xa, người ra tưởng chừng nhìn thấy cả một hạm đội trong một hải cảng”.

Yersin dừng chân ở Ta La vài ngày và dùng ngựa đi xem vùng phụ cận. Ở gần làng Ia Lane có một mỏ thiếc lộ thiên nằm trong dãy núi Bréan (tức Braian). Sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Đi qua làng Yane – làng quan trọng cuối cùng trên cao nguyên, ông xuống thung lũng sông La Ngà, đến làng Droum (có lẽ là làng Kondroum ngày nay). Đêm hôm trước cọp đã vồ hai người Thượng ngay giữa ban ngày. Từ Droum, ông vượt sông La Ngà để đến làng Tô La, nơi Humann đã đến vào năm 1884. Có một loạt làng mang tên Tô La nằm cách xa nhau. Men theo hữu ngạn sông La Ngà, cuối cùng ông vượt sông một lần nữa ở gần Barth Nui (Bác Nui) để trở về Tánh Linh.

Trước khi thực hiện chặng đường thứ ba, từ ngày 22.5 đến ngày 28.5 Yersin tiến hành khảo sát kỹ vùng hữu ngạn sông La Ngà từ Bác Nui đến Cao Cang để xem xét khả năng mở đường qua vùng này. Ông xác định con đường bộ trong tương lai không thể đi qua vùng này vì cánh đồng nơi đây ngập nước vào mùa mưa và cư dân quá thưa thớt.

Con Voi theo đoàn thám hiểm (Ảnh: A.Yersin )

Con Voi theo đoàn thám hiểm (Ảnh: A.Yersin )

Ngày 30.5.1893, Yersin lên đường thực hiện chặng đường thứ ba: từ Tánh Linh đi Phan Rang bằng một con đường núi khác với chặng trước. Ông đã gửi trả về Phan Thiết con voi, người quản tượng và một người Việt vì những người này bị sốt nặng, không thể tiếp tục hành trình. Khác với lộ trình trước, lần này ông đi theo tả ngạn sông La Ngà để trở lại Droum. Kể từ khi Yersin ghé qua làng Droum lần trước đến nay, tại đây cọp đã vồ ba người Thượng nữa. Từ Droum, đoàn thám hiểm vượt sông La Ngà để trở qua bờ bên phải. Sau khi đi qua một loạt các làng đều mang tên Tô La, đoàn thám hiểm đến Tia Lao, một địa điểm đã được ghi trên bản đồ của Humann. Từ Tia Lao, Yersin đi về phía Bắc, hướng đến núi Tadoum (tức Tadoung).

Ngày 11.6, ông đến Bross, nằm ở đáy một thung lũng sâu có sông Đồng Nai chảy qua, phía Bắc là ngọn núi Tadoung. “Ngọn núi này nhìn từ xa tựa như một chiếc mũ lớn nhọn đầu đặt trên cao nguyên, nằm cạnh một thứ mê lộ gồm các đỉnh cao và các thung lũng sâu, dưới đáy các thung lũng là những dòng nước lạnh ngắt. Người ta tưởng chừng đang ở vùng núi Alpes”. Yersin đã băng qua mây mù và mưa để leo lên đỉnh núi cao nhất. Rừng khá rậm, ông phải trèo lên cây để quan sát, nhưng những màn mưa dày đặc không cho phép ông định vị một cách chính xác.

tAHXlFhWuz_Oozdme8zcNATừ Rioung, Yersin đi đến bờ sông Da N’Tâme (tức Da Tam), một chi lưu của sông Da Nhim. Ngược dòng Da Tam, ông đi đến các làng Kréan (gần núi Mnil), Brenne (tức Prenn, gần thác Prenn); sau đó đi về phía Tây-Bắc, rồi bắt đầu leo núi. Sau gần một giờ leo núi, ông bước ra khỏi rừng thông và phát hiện ra cao nguyên Lang Bian. Lúc này là 15g 30 ngày 21.6.1893. Trong nhật ký hành trình, ông ghi vắn tắt “3h 30: grand plateau dénudé mamelonné (3g 30: cao nguyên lớn trơ trụi, nhấp nhô gò đồi).

Trong hồi ký, ông mô tả như sau:

“… Khoảng 15 đến 20 km trước khi đến chân núi chúng tôi ra khỏi rừng và thấy mình đang đứng trước một vùng đất hoàn toàn trơ trụi, phủ toàn cỏ. Mặt đất như những lượn sóng dài làm cho ta có cảm tưởng đang đi trên một đại dương bị xao động bởi những đợt sóng khổng lồ. Dãy Lang Bi-an sừng sững ở giữa như một hòn đảo và dường như càng lùi xa khi ta đến gần. Trong những cánh đồng bao la ấy, ta dễ tính sai cự ly. Dưới đáy thung lũng, đất màu đen và có than bùn. Những đàn nai lớn cho phép đến gần khoảng một trăm mét, rồi vụt bỏ chạy ra xa, ngoái đầu lại nhìn chúng tôi một cách tò mò”… .

Ở một đoạn khác, Yersin mô tả về cao nguyên Lang Bian như sau:

“Vùng đất này cư dân thưa thớt, một vài làng của người M’Lates (…) được tập trung ở chân núi; nơi đó họ làm những ruộng lúa nước rất đẹp (…). Người M’Lates nói tiếng Chăm cũng thạo như tiếng Mạ. Phụ nữ xoi vành tai thật rộng để nong vào đó những vành tròn hay treo vào đó những ống thiếc hình xoắn ốc rất nặng. Người ta tiếp tôi trong căn nhà làng. Mỗi già làng mang tới vò rượu cần của mình. Có đến sáu vò rượu xếp hàng dài trước mặt tôi; may thay người ta không yêu cầu tôi phải thưởng thức hết”…

Sau một đêm nghỉ lại ở Dankia, sáng hôm sau Yersin vượt dòng Da Dung để trở lại Deũng, sau đó đến làng Ankroêt. Bằng một lộ trình khác với lộ trình đến, ông rời Lang Bian trở lại Rioung. Cơn mưa lớn làm cho các con dốc trở thành trơn trượt, các dòng suối nhỏ trở thành sông lớn, rất nguy hiểm khi vượt qua. Trong khi ông vắng mặt, ở Rioung, cọp suýt vồ mất một con ngựa ngay giữa nơi cắm trại.

Yersin rời Rioung đi đến thung lũng Da Nhim để trở về Phan Rang…. Trong lần trở về này ông suýt mất mạng vì một toán cướp có vũ trang khiến ông bị thương, được những người Thượng hộ tống khiêng bằng võng về Phan Rang ngay trong đêm. Trên đường đi, ông bị tên cướp đầu sỏ hung tợn nấp trong rừng bắn hai phát súng lục nhưng không trúng. Vào khoảng 7 giờ sáng hôm sau, nhóm người khiêng ông lại lọt vào giữa một đàn voi rừng. Một con voi cái và một con voi con nhắm vào họ lao tới. Các phu khiêng võng hoảng sợ bỏ chạy. Bỏ Yersin nằm lại trong võng, Yersin suýt bị voi dẵm, nhưng may thay, vào phút chót, con voi mẹ lại đi chệch ra khỏi đường mòn.

Ngày 26.6 Yersin đến Phan Rang với thương tích đầy mình.

Sau khi bình phục, từ 19.7 đến 19.8, Yersin đến thăm M’Siao, một tù trưởng người Bih ở vùng Daklak mà ông đã quen trong chuyến thám hiểm năm 1892. Ngày 8.9 ông rời Nha Trang, theo đường cái quan trở lại Phan Rang. Từ nơi đây, ông lên vùng cao nguyên để kiểm tra lại kết quả khảo sát, sau đó trở lại Tánh Linh. Từ Tánh Linh, ông trở lại Biên Hoà, kết thúc chuyến thám hiểm dài bảy tháng. Con đường mà Yersin khảo sát đã được thi công xong vài kilômét đầu tiên.

Sáng kiến thành lập các trạm nghỉ mát vùng núi ở Đông Dương bắt nguồn từ toàn quyền Paul Doumer (cha đẻ của Cầu Long Biên) khi ông này đến nhậm chức vào năm 1897. Doumer đã học kinh nghiệm này từ những người thực dân Hà Lan ở Indonesia và nhất là từ người Anh ở Ấn Độ.

Hồi ký của Doumer cho biết nhiều cuộc tìm kiếm công phu và kéo dài ở nhiều địa điểm đã không thành công; nhưng có một địa điểm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra, nhờ sự chỉ dẫn của Yersin: đó là cao nguyên Lang Bi-an.

Thành công của chuyến thám hiểm đã góp phần nâng cao uy tín của Yersin. Ngày 28.12.1893, Hội đồng Thuộc địa đã thuận cấp kinh phí cho ông thực hiện chuyến thám hiểm thư ba: từ Nha Trang qua vùng Tây Nguyên, Hạ Lào đến tận Đà Nẵng (từ 12.2. đến 7.5.1894).

Đến Đà Nẵng vào thượng tuần tháng 5.1894, Yersin được biết trong thời gian ông vắng mặt, chính phủ Pháp đã ra lệnh cho Toàn quyền Đông Dương cử ông đến Vân Nam để đối phó với bệnh dịch hạch. Yersin đã phát hiện ra vi trùng bệnh dịch hạch vào đêm 20.6.1894. Phát minh này đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời Yersin. Những yêu cầu cấp bách của y học đã buộc ông phải từ bỏ lòng say mê phiêu lưu mạo hiểm. Thay vào đó là một sự say mê bền bỉ đối với công tác thực nghiệm khoa học mà ông đã nuôi dưỡng cho đến ngày nhắm mắt lìa đời.

Từ một vùng rừng núi cư dân thưa thớt, còn đang ở trình độ thấp kém của thời kỳ công xã nguyên thủy, Đà Lạt đã phát triển một cách nhảy vọt thành một đô thị hiện đại. Có thể nói nếu không có nhu cầu xây dựng trạm điều dưỡng của người Pháp để từ đó phát triển dần thành một thành phố du lịch và nghỉ dưỡng nổi tiếng thì Đà Lạt ngày nay có thể cũng chỉ là một vùng quê hẻo lánh hoặc một thị trấn thuộc loại trung bình như thường thấy ở các vùng rừng núi nước ta.

Bước phát triển nhảy vọt của cao nguyên Lang Bi-an bắt đầu từ ngày 21.6.1893. Đó cũng là điểm khởi đầu của quá trình hình thành đô thị Đà Lạt, trong đó nổi bật lên vai trò của ông Năm Yersin, người đặt nền móng quan trọng đầu tiên từ những nỗ lực lớn lao như thế. (**)

Hồ Xuân Hương - Nguồn: Wiki.

Hồ Xuân Hương – Nguồn: Wiki.

Sau mỗi đêm ngon giấc, chúng tôi đi dạo một vòng quanh Hồ Xuân Hương, đôi khi qúa chân còn sang cả Hồ Than Thở ngút ngàn sương khói. Đà Lạt đã hết mùa hanh khô, nên ban đêm thường có mưa. Sau mưa, không khí như mát dịu hơn, những làn hơi nước sương bảng lảng trên những con đường, tán thông, bên những hàng rào quanh các biệt thự lớn nhỏ. Mà cũng lạ, ở thành phố này trăm căn biệt thự là trăm hình thái khác nhau, mà tổng thể vẫn hài hoà. Những cổng cửa đa dạng. Những lối vào lên xuống. Cả những hàng rào cũng vậy, dù gỗ ván ghép, là cây xén tỉa, vài khóm hoa, dù rào sắt, cọc xây, cọc cắm hay xếp đá. Không có cái nào giống cái nào. Nhờ được tô điểm bởi những hàng rào với không gian và thiên nhiên uyển chuyển kỳ diệu ấy mà đường nét, hình khối kiến trúc không bị khô cứng. Làm sang và làm nổi bật các toà nhà toạ lạc bên trong. Nhìn mãi mà không chán mắt. Chỉ tiếc thời gian như vô tình, con người cũng vô tình, đã làm phôi pha phần nào chút hào quang rực rỡ vang bóng một thời ấy của nhiều công trình.

Nhớ lại chuyện “Tái Ông mất ngựa“ của người tàu, sau mỗi khám phá mới về ông Năm Yersin, trong tôi thấy thèn thẹn với bậc vĩ nhân. Thấy những khó khăn của chúng tôi hôm nay, thấm tháp gì so với những khó khăn nguy hiểm mà bậc ân nhân của nước mình đã kinh qua. Ông đã tạc vào lịch sử những dấu ấn không bao giờ phai, ở cái tuổi cũng chỉ bằng tuổi đời của chúng tôi lúc bấy giờ.

nPLIjNUcOY7_yNHhKAiPLACon đường lên Lang Bi-an của ông Năm cách nay đã 123 năm. Ông người gốc Pháp, gia đình Yersin phải lánh nạn sang Thụy Sĩ và cậu bé Alexandre chào đời tại đây, một vùng quê miền núi hẻo lánh xứ người. A. Yersin theo học ngành y tại Lausanne (Thụy Sĩ) và Marburg (Đức). Sau đó nhận bằng tốt nghiệp y khoa tại Đại học Paris. Trước khi dừng chân ở mảnh đất hình chữ S xa xôi, trong ước muốn thám hiểm những vùng đất mới, ông từng có những năm miệt mài nghiên cứu tại viện Pasteur Paris, đã có những thành công ban đầu khá ngoạn mục và được trao huân chương danh giá nhất của Pháp (Bắc Đẩu Bội Tinh), được trở lại quốc tịch Pháp năm ông 27 tuổi. Song định mệnh đã đưa ông tới Xứ An Nam nghèo khó và giữ chân ông ở lại cho tới lúc mãn chiều xế bóng. Cuối đời mặc dù yếu phổi, ông vẫn tận lực làm việc cho tới hơi thở cuối cùng. Ông ra đi thanh thản và để lại cho đời nhiều nhớ thương tiếc nuối. Thông điệp để lại trong di chúc của ông: Được chôn tại Suối Dầu Nha Trang thì không có gì thắc mắc. Nhưng không cho phép đọc điếu văn và đặt thi hài nằm sấp hẳn còn nhiều uẩn khúc chăng?

Chỉ còn ngót hai tháng nữa là nhân loại sẽ kỷ niệm tròn 120 năm, ngày Alexandre Yersin tìm ra con vi trùng nguy hiểm đã gây nên những trận đại dịch hạch cướp đi sinh mạng của hàng trăm triệu người: “Yersinia pestis“!

Tên con vi trùng dịch hạch đã được đặt theo tên của người tìm thấy nó đầu tiên.

Con người của ông còn mang nhiều bí hiểm. Ông rất yêu quê hương, yêu nơi mình đã cất tiếng khóc chào đời, nhưng lại tình nguyện sống và chết tha hương. Ông rất có hiếu với các bậc sinh thành (thân mẫu) nhưng lại chọn cuộc sống độc thân không con cái suốt đời. Ông rất ghét thói xa hoa và ghét ách đô hộ của Thực dân Pháp ở Đông Dương. Nhưng lại lợi dụng tiến trình khai thác thuộc địa của Pháp để cứu giúp người nghèo khó và canh tân những vùng đất lạc hậu tối tăm. Bản tính ông giản dị mà lại luôn tiên phong trong những phát minh mới của công nghệ. Ưa thám hiểm mà từ bỏ hết cả tương lai ở Paris hoa lệ. Niềm đam mê thám hiểm chưa thỏa, định mệnh lại cuốn ông trở lại “thiên chức thầy thuốc“ cao qúi của mình. Ông đòi an giấc ngàn thu theo tư thế nằm sấp như lời trăng chối của Trạng Quỳnh xưa, nhằm chống lại cái ác, cầu mong cho nhân loại sớm thoát khỏi ách hà khắc của đám bạo chúa hôn quân?

Xin các bậc cao minh chỉ dạy cho đầu óc còn u tối được thông tỏ!

Gocomay

___

* Cả hai vị này sau leo tới chức Thứ trưởng Bộ Y Tế trước khi nhận sổ hưu. Hồi đó, TS Lê Diên Hồng là Vụ Trưởng Vụ Vệ Sinh Phòng dịch; còn BS Trịnh Quân Huấn là thư ký cho ông Hồng

* * Bài này có tham khảo và trích dẫn nguồn tài liệu của Hội Ái Mộ Bác sỹ Yersin…

__________________

827 – Thiên chức lương y của Yersin gửi người đời!

Alexandre Yersin (1863-1943)

Alexandre Yersin (1863-1943)

Vào tháng 4 năm 1985, Sau một năm làm việc cật lực, phim “Thuỷ điện nhỏ” đầu tay của tôi không bị đổ như ai đó mong đợi. Được xếp loại khá. Có lẽ do sự hiện diện của rất nhiều ngọn thác lớn và đẹp bậc nhất Tây Nguyên đã làm cho người xem phải trầm trồ. Theo đúng luật, vượt qua ải “vũ môn”, tôi đương nhiên được công nhận chức danh đạo diễn của hãng. Biết không thể cản được quyết tâm vươn lên của tôi, Chef Lương Đức mời tôi lên quán nước ông Chiu, cổng hãng, gọi kẹo lạc nước trà, dùng tình cảm thuyết phục!

Kết thúc tuần trà đầu, “chàng” ân cần bảo tôi:

– Phim đầu tay của cậu không tồi. Nhưng tớ thấy cậu lãng phí thời gian vào nó quá. Nếu không làm đạo diễn, cậu có thể làm quay phim cho 4, 5 phim như những năm trước… chắc chắn cả công và tư vẫn có lợi hơn không?

Từng cộng tác và học hỏi ở “Chef Lùn” trong nhiều phim mấy năm qua, thoáng nghe, lời “chàng” không phải không có lý. Ngay cả thời các Chef tiền nhiệm như: Quốc Ân; Như Ái; Nguyễn Thiệu và Lê Quốc còn trị vì, cái tên Lương Đức vẫn là một tên tuổi lớn trong làng điện ảnh Tài liệu Khoa học. Huống hồ bây giờ “chàng” lại quyền sinh quyền sát. Một lời nói tựa như trái núi, ai mà không ngán. Biết khó có thể chống lại ý muốn của chàng khổng lồ, tôi bèn đưa ra đề nghị “hai bên cùng có lợi”. Tôi vẫn chấp nhận quay phim cho “chàng” và “nàng” (Lệ Mỹ). Nhưng đổi lại cứ sau hai phim quay xong, tôi được tự quay và làm đạo diễn một phim cho mình.

Thấy khó lay chuyển cái quyết tâm làm đạo diễn của tôi, sau phim “Cá Trôi Ấn” quay ở Từ Sơn Bắc Ninh xong, Lương Đức phải giao phim “Bệnh Dịch Hạch” cho tôi. Đề cương của phim này do Lại văn Sinh chắp bút, được duyệt đã lâu, nhưng không ai nhận. Nay “bắn” cho tôi gọi là “thử tay nghề đạo diễn mới”! Thật là “nhất cử mà tam, tứ tiện”!

Chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng đổi lại tôi có sức trẻ và ý chí rất mạnh nên cứ nhận bừa. Khi bắt tay vào cuộc mới thấy thâm ý của các bậc tiền bối thật khôn lường. Cỗ xe tam mã lại từ từ chuyển động vào Miền Trung, để lại phía sau bao nhiêu bề bộn của đời thường.

Vào Nha Trang, có lẽ đó là thời điểm khó khăn nhất của Viện Vệ sinh Dịch tễ, nên ngoài việc giúp chúng tôi vài cảnh cảnh quay sơ sài ở phòng thí nghiệm và các di tích cũ của Yersin ở xóm Cồn, cầu Bóng và Suối Dầu, viện cũng “lực bất tòng tâm” chẳng giúp chúng tôi được như mong đợi. Mặc dù nơi đây là chiếc đầu cầu lây lan bệnh dịch hạch ở Việt Nam hồi cuối thế kỷ 19.

Những ngày làm việc tại Khánh Hoà, được tiếp cận nhiều tài liệu về Yersin, về 3 đợt đại dịch hạch khủng khiếp diễn ra trên thế giới, với con số tử vong bởi “thần chết đen” mỗi đại dịch từ 50 tới 100 triệu người. Trong tôi luôn cộm lên một câu hỏi:

– Tại sao một nhà bác học lớn tầm cỡ như thế, mà lớp hậu sinh như chúng tôi hầu như không hay biết?” Không một bệnh viện nào, không một trường học nào mang tên của ông. Ngay các đường phố ở Hà Nội, Nha Trang và TP Hồ Chí Minh tên của ông cũng được Việt hóa thành: “Y Éc Sanh” nên nhiều người còn nhầm ông này là ông tổ của nghề mổ lợn.

Thắng bệnh dịch hạch, ân nhân của nhân loại, vị tha, quên mình, Yersin là người đã chiếm trọn tình cảm của người dân thành phố biển Nha Trang một cách êm thấm. Đi trước thế kỷ của mình, ông là người mở đầu trợ giúp cho các xứ nhược tiểu, phát triển về trồng trọt, chăn nuôi và y tế.

Nhiều buổi chiều lang thang bên những xóm chài nghèo dưới chân Tháp Bà và cầu Bóng, lắng nghe những người đánh cá già kể với một tấm lòng rất thành kính nhiều kỷ niệm không bao giờ phai về người bác sỹ rất thân thiện với bà con cư dân nơi xóm Cồn.

Họ kể, ông Năm (bác sĩ Yersin) rất cởi mở, gắn bó với người dân Nha Trang, rất yêu quý trẻ em. Ông hay cho chúng tôi kẹo, tiền lẻ để mua quà. Thời bấy giờ, ngư dân tránh được tai họa do bão cũng là nhờ bác sĩ quan sát thiên văn, nghe thời tiết mà báo trước cho họ. Ông Năm thường khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho dân nghèo.

Ngư dân có thói quen hay uống rượu say, kình lộn, gây gổ, chửi nhau, thậm chí ẩu đả. Bác sĩ lặng lẽ lấy máy quay phim, ghi lại những chuyện không hay ấy. Sau đó, mời dân xóm Cồn đến xem phim, hỏi họ có hay không, đẹp không? Ai nấy đều xấu hổ. Nhờ đó mà xóm Cồn thời ấy gần như hết nạn say rượu, đánh chửi nhau.

Ngày ông mất, rất nhiều người dân ở xóm Cồn, ở Nha Trang thương khóc như cha mất. Họ để tang và đoàn người tiễn đưa ông dài hơn ba cây số. Có ở đâu như ở Nha Trang, người dân địa phương thờ cúng ông – một người nước ngoài – như một vị thánh nhân đức!

Trong thư tịch ở tủ lưu niệm tôi còn được biết, lúc sinh thời, một số đồng nghiệp không đồng quan điểm với ông tại viện Pasteur Paris và những người Pháp tại Đông Dương thấy Yersin phân tán tri thức lấy làm gai mắt, cho ông là một người kỳ dị.

Song chính nhờ sự “kỳ dị” đó mà ông đã thành công trên nhiều phương diện, luôn đi tiên phong trong những lãnh vực mới, với nhiều phát minh sáng giá như:

  • Máy phát thu bằng chữ morse để liên lạc Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà
  • Máy thu thanh tân tiến, bắt được các đài bên Pháp
  • Kính thiên văn

Dù chiếc xe đạp là phương tiện được ông ưa chuộng. ngay từ năm 1910, ông đã muốn tậu một chiếc phi cơ, nhưng vì Đông Dương không có sân bay, ông đành bỏ dự định này.

Trong khi viên Công sứ tại Nha Trang chưa có xe nhà thì Yersin đã gởi mua tại Pháp chiếc Serpollet năm mã lực, chiếc xe Clément và một thuyền máy.

Hai năm sau, ông bán lại chiếc Serpollet năm mã lực cho viên Công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tậu chiếc xe Serpollet sáu mã lực đem ra Hà Nội làm lác mắt chẳng những dân cư Hà Nội mà cả chính giới. Viên tướng chỉ huy quân đội Pháp còn nhờ ông đưa xe đi diễu hành qua cầu Long Biên.

Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc Serpollet sáu mã lực, tậu chiếc Serpollet mười một mã lực. Năm 1907, ông mua một chiếc Alcyon. Năm 1912, ông mua chiếc Clément Bayard mười lăm mã lực. Đến năm 1925 ông lại tậu chiếc Zèbre vừa mau vừa êm để tiên cho việc đi lại làm việc giữa Nha Trang, Hòn Bà, Dran và Djiring. Nhưng khi cần tiền cho các công trình nghiên cứu hay giúp người nghèo, ông bán ô-tô và dùng lại xe đạp. Trong các đợt thám hiểm ông dùng ngựa, voi hay đi bộ chứ không dùng võng hay kiệu như các quan lại Pháp hay Việt thường dùng khi đi kinh lý.

Năm 1943, vì phổi yếu, ông dùng xích-lô. Nhắc đến Yersin, ai cũng hình dung một ông cụ già khiêm tốn ăn mặc xuềnh xoàng đi chiếc xe đạp cũ kỹ, quên rằng Alexandre Yersin đã làm bực mình các quan chức chính quyền thời bấy giờ với những chiếc ô-tô tối tân.

Tiên phong trong những lãnh vực mới, năm 1932, khi chuyến bay đầu tiên của hàng không Pháp nối liền Sài Gòn – Paris thì ông dùng máy bay để di chuyển. Tháng 3 năm 1940, Yerin bảy mươi bảy tuổi, lấy máy bay về Pháp để dự buổi họp hằng năm của viện Pasteur Paris. Một cuộc hành trình rất gay go. Ngày 30 tháng 5 năm 1940, chuyến máy bay cuối cùng đưa ông về Việt Nam, trước khi quân đội Đức vào Paris.

Mặc dù vậy, Yersin lại thích sống chung với người dân nghèo chài lưới và đã bỏ tiền tậu lại cái lô-cốt hai tầng lầu bỏ hoang gần xóm Cồn và cửa sông Cái. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí quyển XI về Khánh Hoà, đó là một đồn biên phòng rất lâu đời.

Ngư dân xóm Cồn thường gọi tòa nhà này là “Lầu Ông Tư”, nơi bác sĩ A. Yersin sống và làm việc ngay giữa làng chài bên cửa sông Cái, Nha Trang. Năm 1977, tòa nhà đã bị đập bỏ để xây dựng nhà nghỉ 378 của Bộ Công an hiện nay.

(Tư liệu của PĐQ)

Nhà riêng của A. Yersin bên cửa sông Cái - Nha Trang

Nhà riêng A. Yersin bên cửa sông Cái – Nha Trang

Từ năm 1895, Yersin đã tạo lập cho mình chỗ ở tuyệt vời để hằng ngày quan sát và hoà nhập với thiên nhiên.

Lô-cốt mỗi bề khoảng 7m 50. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc. Có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn.

Có người cho ông là con người lập dị, một người không chạy theo danh vọng, quyền lợi cho riêng mình. Một đoạn thư ông viết cho mẹ năm 1890 khi ông hai mươi bảy tuổi: “Mẹ hãy tưởng tượng xem ông Pasteur đã xin được cho con huân chương của Hàn lâm viện. Các thành viên của Viện Đại học Pháp rất mong muốn có được tấm huân chương màu tím này, song bản thân con lại không hề thấy mình xứng đáng được nhận”. Tháng 12 năm 1927, khi nhận giải thưởng Leconte của viện Hàn lâm Khoa học, ông tuyên bố: “Giải thưởng nầy là vinh dự cho viện Pasteur và số tiền nhận được sẽ giúp cho các cuộc thí nghiệm trồng cây quinquina (Canhkina). Ông đầu tư nguồn tiền thưởng hậu hĩnh từ các phát minh vào các công trình đang thực hiện. Tiền từ Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh; Giải Audiffret của Hàn lâm viện Tâm lý và Chính trị có kèm theo 15.000 quan Pháp. Ông dùng số tiền này tiếp trợ cho nền tài chánh Suối Dầu. Giải thưởng Lassen đem lại cho ông 8.000 quan Pháp. Ông dùng ngay tiền đó vào việc mở đường mòn nối liền Suối Dầu – Hòn Bà.

Khi vua Bảo Đại trao tặng Bội tinh Kim Khánh (Long Bội tinh) cho ông, vì phép lịch sự ông buộc lòng phải cho vua Bảo Đại đeo Kim Khánh vào cổ mình, nhưng khi vừa bước xuống, ông đã e lệ dùng chiếc mũ ép lên ngực che hết chiếc huân chương. Năm 1938, trường trung học Đà Lạt muốn có một bức tượng bán thân của Yersin, ông cương quyết từ chối làm mẫu.

Khi toàn quyền Decoux muốn biết tên những người quyền quí, danh tiếng mà Yersin đã gặp, ông trả lời: “Ở Đông Dương tôi ít giao thiệp với những hạng người ấy.”

Thật ra Yersin đã có lần gặp nhiều người danh tiếng. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến Nha Trang có ghi vào sổ tay: “Vị bác sĩ trẻ này tận tụy với vi trùng học, nghiên cứu, chế tạo “vắc-xe” với một niềm tin tưởng, ý chí đam mê của một nhạc sĩ cao siêu. Những giờ thăm viện của ông làm phấn khởi tinh thần, mặc dầu viện còn thô sơ.”

Bác sĩ Yersin và căn chòi lá, nơi ông tìm ra vi trùng dịch hạch ( (Yersinia pestis) tại Hong Kong năm 1894 - Ảnh tư liệu

Bác sĩ Yersin và căn chòi lá, nơi ông tìm ra vi trùng dịch hạch (Yersinia pestis) tại Hong Kong năm 1894 – Ảnh tư liệu

Sống tha hương, dù ở Pháp, Việt Nam hay Trung Quốc, hầu như tuần lễ nào ông cũng viết thư cho mẹ. Tính đến khi mẹ ông mất, năm 1905, ông đã gởi ngót 1.000 bức thư, cho bà biết sức khỏe và công việc hằng ngày của mình.

Khi mẹ mất rồi, Yersin tiếp tục gởi thư cho người chị ruột, bà Emilie.

Trong thư nhiều khi đầy vẻ hài hước, như khi ông ở Hồng Kông viết cho mẹ: “Con còn nhiều điều nữa muốn thưa với mẹ, nhưng có hai xác chết đang chờ con. Họ muốn ra nghĩa địa cho sớm. Tạm biệt mẹ thân yêu. Mẹ rửa tay sau khi đọc thư này kẻo bị lây dịch hạch, mẹ nhé.”

Noẽl Bernard viết về A. Yersin có câu: “ít có người không vụ lợi như Yersin. Khiêm tốn, giản dị, lịch sự”.

Ông ăn mặc xoàng xĩnh bộ đồ kaki bạc màu cũ kỹ, áo khoác bốn khuy ba túi, áo sơ-mi vải trắng hở cổ, quần kaki trên rộng dưới hẹp giặt sạch mà không bao giờ ủi. Giày vải bố. Trong túi ngực bên trái đựng một cái đồng hồ trái quít đeo bằng một sợi dây gai đỏ. Phải nói rằng Yersin không thiếu đồng hồ. Năm 1945, người ta tìm thấy trong tủ sắt của viện Pasteur Nha Trang rất nhiều đồng hồ trái quít chế tạo tại Thụy Sĩ, phần lớn bằng vàng, dây đeo cũng bằng vàng, bên trong cái nắp đều có dòng chữ: Chế tạo riêng cho Bác Sĩ Yersin.

Ngày 22 tháng 11 năm 1920, ông đáp tàu Paul Lecat đi Marseille. Một phục vụ viên trẻ của tàu không biết ông, cương quyết không cho ông vào phòng ăn. Nội qui của tàu bắt buộc phải thắt cravate khi bước vào phòng khách. Yersin trở về cabine. Sau đó, ông quay lại phòng ăn nói với phục vụ viên: “Chiếc cravate nầy cậu có chấp nhận không ?” Vừa nói ông vừa chỉ tay xuống chỗ hở ở cổ áo nơi ông vừa đút tấm huân chương “Bắc Đẩu Bội Tinh” vào.

Năm 1925, một buổi sáng ông đến hãng xe gặp một người khách sang trọng từ Pháp mới tới. Người nầy thấy ông ăn mặc xoàng xĩnh buột miệng kêu lên: “Tên bụi đời lang thang này làm gì ở đây ?

Bữa ăn của ông thường đạm bạc. Món ăn ông ưa thích thường ngày chỉ là món xúp rau cải ăn với bánh mì hoặc biscotte. Trong thời gian chiến tranh ông phải ăn bánh tráng thay cho bánh mì. Ông thích ăn cá hơn là thịt. Các loại cá được ông ưa chuộng là cá thu, cá mú.

Món rượu khai vị của ông thường chỉ là thứ nước có bột quinquina do ông tự chế. Nước uống đôi khi ông dùng nước lá sả mà ông bảo rằng dễ tiêu hoá. Có lần đi thám hiểm vùng cao nguyên, ông chỉ ăn cơm không trong hai tháng.

Làng chài xóm Cồn (xóm Bóng) nhìn ra Hòn Đỏ.

Làng chài xóm Cồn (xóm Bóng) nhìn ra Hòn Đỏ.

Vì Nha Trang thường có bão táp, Yersin nghiên cứu về khí tượng, thời tiết để giúp ngư dân.

Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.

Tháng 11 năm 1939, đoán biết rằng một cơn bão lớn sẽ đổ vào bờ biển Nha Trang, Yersin vội tập trung tất cả ngư dân xóm Cồn vào trong nhà mình. Cơn bão biển dữ dội đêm ấy đã cuốn trôi nhiều nhà cửa xóm Cồn, nhưng bà con vẫn an toàn.

Từ hôm ấy, Yersin được nhiều người dân xóm Cồn tặng cho biệt hiệu “người đã trị cơn sóng thần”.

Viết về Yersin, và viện Pasteur Nha Trang, Henri Jacotot đã có những lời ca ngợi tốt đẹp:

“Trong những thời điểm quan trọng, Yersin luôn luôn sống trong tình trạng báo động thường trực cả ngày lẫn đêm.” (Yersin et son temps, H. Jacotot-1937)

Chẳng những lo bảo vệ dân chúng tránh tai nạn bão lụt, Yersin còn luôn luôn tỏ ra nhân ái đối với người dân ở Nha Trang, nên ông được người Việt yêu chuộng và kính phục. Ông tự coi mình như một người dân trong làng, một người có phần may mắn hơn người khác, vì vậy ông thấy có bổn phận an ủi và giúp đỡ thuốc men.

Một hôm đi xe đạp từ nhà đến sở, ông bị một tài xế bất cẩn đụng ngã. Không nói một lời nào, ông vội vã dựng xe đạp lên, rồi đi đến viện để băng bó, không đả động gì đến người tài xế có lỗi.

Lần khác ông gặp người nông phu nằm ngủ trong xe bò dưới gốc cây bàng. Mặt trời lên cao, bóng mát thay chiều, ông bảo những người phụ tá đẩy xe bò vào chỗ mát.

Ông rất thương yêu trẻ con xóm Cồn, thường chiếu phim cho chúng xem. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc: “Đừng rầy đánh, người ta sợ.”

Ông thường đọc báo chí Việt ngữ. Một hôm đến viện ông trao cho ông Bùi Quang Phương, người cộng sự từ năm 1897, bài thơ “Năm Cụ Ông” chép trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng nói về năm bộ trưởng đương kim bị cách chức và thay thế bằng năm người khác do Pháp chỉ định. Bài thơ khó hiểu vì có nhiều nghĩa bóng.

Yersin rất nhẫn nại tử tế với những người cộng sự bản xứ, không bao giờ to tiếng, không bao giờ thị oai.

Người dân Nha Trang gọi ông là Ông Tư (theo cách gọi của người đàng trong, chỉ ông là con thứ ba). Hay Ông Năm vì theo ngạch nhà binh ông là Đại tá quân y. (Một tác giả Pháp Elisabeth Duclosel ghi ông là Nam, bác sĩ Annam, là sai.)

Ông không lấy vợ. Sống thanh đạm độc thân, tiết chế xa hoa nhục dục.

Elisabeth Duclosel thêu dệt cho ông một quan hệ tình ái giữa ông và một công chúa của bộ lạc Rhadé, là hoàn toàn không có cơ sở.

Yersin đến với người Việt Nam bằng một tấm lòng chân thật. Đó là chìa khoá kỳ diệu đã mở cửa cho ông đi vào tình cảm của người Việt Nam.

Ông ra đi rất thanh thản, ngày 01 tháng 03 năm 1943 vào lúc 01 giờ sáng, vừa đúng tám mươi tuổi.

Một ngày trước khi từ giã cõi đời, ông còn ngồi trên ghế xích-đu dùng ống dòm đo mực thủy triều.

Mặc dầu có lời căn dặn của ông trong di chúc muốn được an táng đơn giản, đám tang của ông to lớn chưa từng thấy ở Việt Nam. Ngoài đại diện của chánh quyền còn vô số người Việt, người Pháp, người Chà, người Hoa, người Thượng. Dân chúng bày hương án hai bên đường từ Nha Trang lên tận Suối Dầu nơi ông an giấc ngàn thu. Thể theo chúc thư, đám tang của ông thật giản dị, không có ai đọc điếu văn.

dscn48401Bên cạnh mộ Yersin có xây một cái miếu nhỏ đặt ảnh ông và hương án. Tại chùa Linh Sơn và Long Tuyền có bàn thờ ông bên cạnh bàn thờ Phật, mặc dầu lúc sinh thời, người dân Nha Trang không hề thấy Yersin bước chân vào chùa hoặc nhà thờ.

Mỗi năm đến ngày 01.03 người dân Nha Trang đến đốt hương và nghiêng mình trước mộ Yersin.

Trong năm mươi bảy năm hoạt động khoa học (1886 – 1943) Yersin đã công bố năm mươi lăm công trình và bốn mươi tác phẩm về y học, trong đó có mười ba đề tài chuyên cứu về dịch hạch, và mười lăm đề tài chuyên về nông nghiệp trồng cây quinquina và hévéa (cây cao su).

Yersin mãi mãi đi vào lòng người Nha Trang nói riêng và Việt Nam nói chung. Đó là đền Panthéon của Ông Năm và ông còn sống mãi mãi!

DGku4j7zSI_Saxe9qijHfQBác sĩ A. Yersin đã để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu, yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn”

Theo di chúc, khi khâm liệm người ta đặt Yersin nằm sấp, đầu quay về biển để ông mãi mãi ôm mảnh đất Việt, nơi ông đã chọn làm quê hương! (*)

Rời Nha Trang, tuy phim chưa quay được gì nhiều. Nhưng ấn tượng sâu đậm về Yersin cứ day dứt mãi trong tôi. Nung nấu trong tôi một niềm tin, nguồn năng lượng mới. Giúp tôi nỗ lực không biết mệt trong những lúc khó khăn. Có lúc tưởng như đã tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. Phim “Bệnh Dịch Hạch” đã thành công. Để 3 năm sau, khi phim mang đi dự LHP Việt Nam lần thứ 8 vào tháng 3.1988 ở Đà Nẵng. Bộ phim đã chiếm được trọn vẹn cảm tình của khán giả. Như lời cố Đạo diễn – NSND Ngọc Quỳnh (Thành viên Ban giám khảo Phim Tài liệu – LHP VN VIII) đã phi lộ với tôi: “Phiếu điểm của dịch hạch là cao nhất. Đúng ra phải Bông Sen Vàng. Nhưng có ý kiến cho rằng, đây là phim của một đạo diễn mới, nên hạ xuống Bông Sen Bạc để tác giả đỡ kiêu, mà nỗ lực thêm… “.

Người ta còn cẩn thận với tôi tới mức, giới thiệu Lại văn Sinh lên nhận giải của phim thay tôi. Tấm bằng này khi ra tới Hà Nội thì Sinh đã giao trả lại cho tôi. Nó vẫn theo tôi sang tận xứ người. Với phim này Sinh còn lên bục lần nữa để nhận giải Bông Sen Vàng về Kịch bản. Nhớ hôm trao giải, người đẹp Sơn Thu – Giám đốc Khách sạn Phương Đông ở Đà Nẵng, người rất hâm mộ tôi từ bộ ảnh cưới tôi chụp ngày nàng lên xe hoa từ 5 năm về trước đã mua bó hoa rất to để lên tặng cho tôi. Nhưng tặng hụt. Nàng lủi thủi đem hoa về nhà, rồi kiếm bằng được chai Johnnie Walker (qúi hiếm dạo đó) quay lại lúc tàn cuộc, chả nói câu nào, nàng dúi chai rượu vào tay tôi và biến mất tăm cứ như sợ ai đó trông thấy vậy?

Từ bấy tới nay, đã ngót 30 năm, không gặp lại người đẹp lần nào, chuyện đánh tráo giải thưởng của Trưởng Ban giám khảo Bùi Đình Hạc tôi cũng đã quên. Song những chiếc kéo sắc oan nghiệt của các chức sắc và các bậc đa đề khoác áo Blouse trắng ở Bộ Y tế xứ “thiên đường” đối với những hình ảnh bác sỹ Yersin mà tôi đã đưa vào trong phim thì tôi không dễ gì quên. “Không quá đề cao những kẻ dù có công nhưng đã theo chân tụi Thực dân sang đô hộ đất nước mình…”. Những lời trái tai đó cứ vang mãi trong tôi.

dscn48321Nay thấy xôn xao chuyện dịch sởi chết người. Lại nghe, vào ngày tận tháng tận năm ngoái, các “đỉnh cao trí tuệ” nhà ta, sau bao nhiêu năm quên lãng đã cấp Quốc tịch Việt Nam cho Alexandre Yersin (truy tặng danh hiệu “Công dân danh dự“). Càng mừng hơn, những cái tên “sát sanh eng éc” (Y Éc Sanh) ở khắp Hà Nội, Nha Trang, Sài Gòn và Đà Lạt đều đã được viết lại và đọc đúng với tên mà các đấng sinh thành ra ông đã đặt: Yersin! Các cơ sở nghiên cứu y khoa mang tên người thầy của Yersin là Louis Pasteur ở cả ba miền, một dạo bị đổi thành Viện Vệ sinh Dịch tễ. Nay đã được “trả lại tên cho em” thành Viện Pasteur. Thật cả mừng!

“Con rất vui thú khi tiếp chuyện những người đến hỏi ý kiến nhưng con không muốn hành nghề bác sĩ, nghĩa là con không bao giờ có thể đòi hỏi bệnh nhân trả công khi săn sóc cho họ. Con xem ngành y như là một thiên chức, tương tự vai trò của mục sư. Đòi tiền công săn sóc bệnh nhân, như có phần nào nói với người ấy: tiền hay cuộc sống. Con biết không phải tất cả các đồng nghiệp của con đều chia sẻ những ý nghĩ này, song đấy vẫn là những điều con nghĩ và sẽ khó lòng mà từ bỏ chúng”. Trong một bức thư, A. Yersin viết cho thân mẫu của ông như thế!

Thì ra, “chiếc áo không làm nên thầy tu”. Cũng như chiếc Blouse trắng không thể trở thành lương y khi người thầy thuốc còn mờ mắt vì tiền. Liệu có vị “Thầy thuốc Nhân dân” nào xứ mình đã thực sự xem ngành y như là một thiên chức như A. Yersin?

Sau 1975 “nhà nước ta” đã đập phá ngôi nhà của Ông “Năm Yersin” để xây dãy khách sạn 3 tầng của bộ nội vụ. Người dân Nha Trang ai cũng thương tiếc di tích của một vĩ nhân, một người suốt đời hy sinh cho dân nghèo bản xứ, lúc chết cũng muốn nằm lại nơi này. Vậy mà… bao nhiêu ân… đã biến thành… oán! ”

Giá mà “những đỉnh cao trí tuệ” không… ngu đần… đã phá đi ngôi nhà của Ông “Năm Yersin”, thì biết bao nhiêu đồ đạc, kỷ vật… của ông, sẽ hấp dẫn du khách trên thế giới sẽ đổ đến nghiên cứu và thăm viếng…! Nha Trang nói riêng, và Việt Nam nói chung… sẽ được thơm lây vì có công và có tâm gìn giữ di tích của một vĩ nhân của nhân loại… Than ôi… !!!!!

The former French lycee Yersin - Da Lat, Vietnam

The former French lycee Yersin – Da Lat, Vietnam

Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt – The former French lycee Yersin Da Lat, Vietnam là 1 trong 1000 công trình kiến trúc tiêu biểu của thế giới – thế kỷ XX! Chỉ tiếc năm 1976 người ta đã đổi lại và bỏ mất cái tên cũ đi, thật uổng!

… nếu mộ Bs. Yersin nằm ở Tp. Nha Trang thì có khi Ông bị ghép tội thực dân đế quốc rồi cũng nên. Hồng y Spellman là người Mỹ. Hồi sau 1975 người ta kỵ bất cứ cái gì thuộc về “đế quốc Mỹ”…

Đó là những tiếc nuối của một số độc giả ái mộ Yersin (trích ở đây).

Những người trót phạm sai lầm với bậc ân nhân vĩ đại như A. Yersin mà biết hối cải. Biết “quay đầu lại là bờ” thì nên lấy câu châm ngôn: “Những gì của César nên đem trả lại cho César” nằm lòng. Bằng không cũng chỉ là sự đãi bôi trên đầu môi chót lưỡi mà thôi!

Gocomay

___

* Bài này có tham khảo và trích dẫn từ nguồn của Hội Ái Mộ Yersin Nha Trang và Thụy Sỹ.

_______________

826 – “Điều trị ngành y tế phải điều trị cả bộ máy”

Tranh minh hoạ của Ba Bui

Tranh minh hoạ của Ba Bui

Điều trị ngành y tế phải điều trị cả bộ máy”! Đó là phương thuốc cho ngành Y tế Việt Nam của tiến sỹ Jonathan London nhân dịch sởi đang diễn biến phức tạp ở nước ta. Tới nay lan ra tới 61/63 tỉnh thành với hàng ngàn ca nhiễm bệnh, trong đó hơn trăm sinh mạng trẻ nhỏ đã bị cướp đi.

Những ngày qua, từng có nhiều khuyến cáo đòi ‘Bộ trưởng Y tế nên từ chức’:

“Tôi chính thc m li kêu gi bà b trưởng Nguyn Th Kim Tiến nên t chc ngay… đ nhng người tht s có kh năng bước vào v trí này đ cu người. T chc vào lúc này đ nhn được s trân trng, và để đánh đng toàn b ngành y dc lc vào s kin đang quá cp bách này.”

(Trích lời của Nhạc sỹ Tuấn Khanh trên BBC tiếng Việt).

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, bà Kim Tiến có phải do dân tín nhiệm đưa bà lên ngồi ở ghế bộ trưởng đâu mà đòi? Ngay Jonathan London cũng nhận định: “Ở phía sau cuộc khủng hoảng bệnh sởi hôm nay là những vấn đề trong ngành y tế mà đã và đang kéo dài từ lâu”. Như vậy, không chữa được cái gốc “cả bộ máy” (thể chế), một ông (bà) bộ trưởng khác lên thay chắc gì đã cải thiện được tình hình.

Kẻ đang viết những dòng này, chẳng nằm trong ngành y, cũng không có chuyên môn gì về y khoa, song nhờ trước đây từng cộng tác làm một số phim với ngành Y tế nước nhà, trong đó có một phim về lĩnh vực dịch tễ nên phần nào cũng hiểu được nguyên nhân sâu xa của vấn nạn đang diễn ra. Đó là thói gian dối, tự phụ và xa dân của những người đứng mũi chịu sào trong trong bộ cánh Blouse trắng. Phải nói ra sự thật này, đau lòng lắm. Tôi cũng xin lỗi trước những người thầy thuốc lương thiện, luôn hết lòng vì người bệnh. Những người đã âm thầm cống hiến, chấp nhận mọi nguy nan để phòng chống hay giành giật sự sống cho đồng loại mà chẳng bao giờ suy bì thiệt hơn.

Trong vô số những người khoác áo Bloese còn tốt đó, có hai người thầy thuốc đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng khó quên, cho dù cách nay đã tròn 29 năm. Đó là bác sỹ Phạm Xuân Long (Viện Vệ sinh Dịch Tễ TP Hồ Chí Minh) và bác sỹ Hoàng Thủy Long (Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương). Nếu không có những con người tận tâm với nghề như thế, không biết dịch bệnh sẽ tái oai tác quái tới mức nào. Lúc chúng tôi bắt tay vào làm bộ phim nhựa 35 mm, phim “Bệnh dịch hạch” thì bà Nguyễn Thị Kim Tiến còn chưa bước vào lĩnh vực vệ sinh phòng dịch. Hai năm sau bà Tiến mới vào Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh làm nghiên cứu viên ở Phòng Dịch Tễ. Để từ đó leo dần lên Phó phòng, Phó Viện trưởng. Rồi Viện Trưởng kiêm Trưởng Ban điều hành Chương trình mục tiêu quốc gia tiêm chủng mở rộng… Trước khi nhảy tót lên Ủy viên dự khuyết rồi Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong cương vị Bộ trưởng Y tế đầy quyền lực vào tháng 7/2011. (Tham khảo ở đây).

Phải ngả mũ bái phục con đường quan lộc hanh thông của bà. Không biết bà làm luận án khi nào mà đậu cả tiến sỹ nữa. Chỉ với 4 năm, sau khi tốt nghiệp đại học Y, làm trợ lý giảng dạy và cán bộ giảng dạy ở Đại học Y Hà Nội (10/1982-12/1986) mà nay, bà đã được phong Phó Giáo sư và Nhà giáo Nhân dân.

Không những thế, từ khi ấm ghế Bộ trưởng Y tế, bà Kim Tiến còn nổi tiếng về những phát ngôn “lịch sử” (gây sốc) của ngành Y. Trong lúc đời sống nhân dân đang gặp vô vàn khó khăn, thì bà Bộ trưởng lại cho rằng, việc tăng giá một số dịch vụ y tế là một trong những thành tựu hàng đầu. Ngày 4/1/2013, bà đã ký quyết định công bố 10 thành tựu tiêu biểu của ngành y tế trong năm 2012. Bà Kim Tiến cho biết, mức viện phí hiện nay là quá thấp so với giá thực chi, vô hình trung làm khổ người dân. Nên theo bà, việc tăng giá dịch vụ không ảnh hưởng đến người nghèo mà hoàn toàn ngược lại. Chính vì giá dịch vụ thấp nên chất lượng không thể cao, vừa làm khổ bệnh nhân, vừa làm khổ bác sĩ. (Theo ĐSPL – 14/12/2013)

Những câu nói của bà được nhà báo Hoàng Hường (Vietnamnet) tổng hợp khá chi tiết.

Xin trích:

“S không có bao che, mà công khai, minh bch nguyên nhân. Trách nhim ca ai s x lý người đó. Li ca vc-xin thì x vc-xin; li do người tiêm, x người tiêm; li do k thut x lý k thut..” (Người lao động 24/07/2013)

“Cm cán b y tế nhn phong bì, quà cáp trước và trong quá trình điu tr nhưng không cm bác sĩ nhn quà sau điu tr, vì đó là tm lòng ca người bnh… … Trong min Nam, bnh nhân đưa phong bì cho bác sĩ sau khi đã được điu tr khi và nói “nếu bác sĩ không nhn quà thì bnh ca tôi không khi được. Quà này là quà nghĩa tình”. (Đất Việt 30/12/2013)

“Có tem rau sch ri thì nên có tem tht bò sch, tem cá sch, gà sch. Mun người tiêu dùng thông thái thì nhà qun lý phi lo cho dân”. (Tuổi trẻ 06/01/2013)

“Vic giáo dc nâng cao đo đc ngh nghip cho đi ngũ thy thuc là vic làm thường xuyên ca ngành. Tuy nhiên, sự đơn đc ca ngành y tế trong vic giáo dc và nâng cao y đc s không th xây dng mt đi ngũ cán b thy thuc gii y thut, sáng v y đc” (Tuổi trẻ 31/12/2013)

“Chuyn cán b y tế nhn phong bì t tay bnh nhân là không được phép. Nhưng ở đâu đó, do quá ti, do cht lượng dch v chưa đáp ng, nên người nhà bnh nhân mong mun được khám trước, được khám k hơn thì bnh nhân có đưa tin. Theo chúng tôi quan sát thì không phi là đưa phong bì mà là đưa tin nhét vào túi. Nhưng là điu dưỡng, người thay băng” (Tuổi trẻ 31/12/2013)

“Khám bo him y tế t 5 gi sáng đến 11 gi trưa vn chưa khám bnh cho người già, không thể đ như thế được. T lúc đi khám đến lúc tr tin ri ch nhn kết qu xét nghim cho đến ra ly thuc… sao mà nó kh thế cơ ch. Mt giường bnh t 2 – 3 bnh nhân nm, tôi lúc nào cũng bc xúc v chuyn này.” (Dân trí 14/08/2012)

“Cách đây 5, 10 năm cho đến gn đây, sao bnh vin ca mình không th xanh sch đp, khoa khám bnh cht chi? Bnh nhân phi ch 6-10 tiếng mi đến lượt khám bnh, công ngh thông tin ng dng không đng b. C ra các nước bên cnh như Thái Lan, Singapore thy bnh vin ca h xanh, sch đp ngăn np, nhưng bnh vin nước mình thì không. Cái này ph thuc rt nhiu vào các đng chí lãnh đo bnh vin. Vào đến bnh vin thì kh s, nguyên nhân do cơ chế tài chính, cơ s h tng, qun lý bnh vin chưa hiu qu. (VietNamNet 06/12/2012)

“100% mt các loi ngâm cht ty trng công nghip, gn 50% dng c sn xut bn, 50% nước ung đóng bình nhim vi sinh. Đúng là quá bn, ăn chi toàn là đ bn!”. Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã nhìn nhận thực tế bất cập này tại TPHCM (Người lao động 18/12/2011)

Đứng trước các diễn biến phức tạp của dịch sởi đang diễn ra, Bộ trưởng Tiến nói rằng, sở dĩ Hà Nội dịch sởi bùng lên mạnh cho dù đây không phải thời điểm phát dịch là do 4 nguyên nhân. Thứ nhất là các cháu bé không được tiêm Vắc-xin. Thứ hai là bố mẹ các cháu cứ đưa con đổ dồn đến tuyến trung ương dẫn đến quá tải. Thứ ba là bệnh nhi dồn một chỗ quá đông, gây lây nhiễm chéo, và thứ tư là thời tiết miền Bắc từ sau Tết đến nay liên tục ẩm, khiến virus gây bệnh hô hấp phát triển mạnh, nhiều trẻ vốn bị viêm phổi, sau mới mắc sởi, bệnh chồng bệnh nên nguy cơ tử vong cao. (NĐT – 23/4/2014).

Như vậy theo bà Tiến, dịch sởi vừa giết chết 112 cháu bé không phải tại Bộ Y tế mà… lỗi tại dân và cả trời nữa!

Những loạn ngôn như thế, tự nó đã bộc lộ cái tâm, tầm, bằng cấp, danh hiệu, trách nhiệm của vị “Tư lệnh ngành” đang lâm trọng bệnh và cần phải chữa trị kịp thời. Người cầm lái vĩ đại của chế độ thì đang lo không biết con bệnh nặng (như bệnh của ngành Y là ví dụ) có chịu tự giác uống thuốc không?

Còn người đã và đang nghiên cứu về ngành Y tế cũng như Chính trị – Kinh tế – Xã hội Việt Nam nói chung như Jonathan thì kê toa thuốc hơi nặng. Ông đòi “điều trị cả bộ máy” như vậy, chắc gì đã nhận được sự hoan nghênh?

Thật là:

  • Đối với kẻ tự hại thân dầu nói cũng bằng thừa. Đối với kẻ tự liều thân dầu giúp cũng vô ích. (Mạnh Tử)

Gocomay

________________

 

Gocomay's Blog

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ