Cụ Viễn (mẹ vợ của nhà nhiếp ảnh Vũ Đình Hồng và đạo diễn Nguyễn Như Ái) -Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn
Gò cỏ may (2)
(Tiếp theo)
Tôi sinh ra ở làng, lớn lên ở làng. Thầy tôi là thợ ảnh giỏi có thứ hạng trong làng nghề ở ngoài tỉnh. U tôi làm ruộng và dệt cửi. Chẳng nói cũng biết, việc nhà nông quanh năm không bao giờ hết. Từ lúc năm tuổi tôi đã biết chăn trâu, sáu tuổi biết cắt cỏ, bảy tuổi biết bắt cua, mò ốc, câu cá, bắt ếch câu nhái, đập châu chấu… đem về chế biến thành các món ăn thôn dã đơn sơ nhưng rất ngon lành, mà sau này dù có lúc được tham dự các đại tiệc cao lương mỹ vị đến đâu tôi cũng thấy không hơn được các món ăn nơi đồng quê ấy. Như món châu chấu kho khô với nước cà mà ăn với cơm gạo mới, nấu chín hơi khô chan nước rau muống vắt chanh thì ai mà chê cho được. Hay món chả nhái băm nhỏ với lá gừng tươi, viên lại đem rán vàng, rồi kho dim nước tương sốt thì tốn cơm lắm. Cái nước tương vô cùng ấn tượng do U tôi cất công phu bằng thứ đậu tương chính hiệu Bờ Re, cùng với mốc gạo nếp cái trồng ở đồng Cối Mèn và nước mưa rào giữa giời mùa tháng sáu. Cái tháng sáu âm lịch kỳ diệu cho làng quê tôi thứ nước mưa tinh khiết lại cho cả cái nắng, nóng như luộc nước đến “cua phải ngoi lên bờ”, để U tôi phơi mốc, ngả tương, làm thành loại đặc sản hồn quê rẻ tiền mà nhiều đạm để dành ăn quanh năm.
Suốt từ tháng ba tới tháng chín, cứ theo U tôi đi cắt cỏ. Sáng cắt cỏ, chiều chăn trâu. Tối bừa rơm, quạt thóc, hay giã gạo. Những ngày nghỉ hè là những ngày làm cật lực giúp gia đình suốt từ mờ sáng cho tới nửa đêm. Là con út, các anh, các chị lớn đi bộ đội, đi thoát ly hết. Tôi là lao động phụ duy nhất giúp U tôi chăm trâu hợp tác giao, chăn lợn lấy thịt giao nộp nghiã vụ nhà nước, vừa lấy phân giao tổ sản xuất. Lại đàn gà lấy trứng, lấy thịt. Thêm đàn ngỗng nữa. Trên mọi tấc đất của cánh đồng làng, không chỗ nào là tôi không thuộc. Này ốc đồng Sai vừa giòn, vừa thơm. Này trai đồng Bàn vừa bùi, vừa nhiều thịt. Này cải xanh vuờn chuối nổi tiếng vì nơi đây có thứ đất nâu đen màu của lớp tro than và mảnh gốm vụn hỗn hợp, phong hóa rất lâu đời từ nền một ngôi làng cũ, di chỉ của cư dân người Việt cổ. Do thành phần trong đất có nhiều khoáng tố Kali, nên cho làng tôi đặc sản cải bẹ, cải xanh mà không thứ cải ở đâu sánh được. Khi cải Vườn chuối nhú lên ngồng, cắt về, phơi tái, rửa sạch đem muối dưa, nén cả cây, thì luôn có màu vàng ươm nom hấp dẫn, ròn và thơm vô cùng. Cải Vuờn chuối có vụng muối một chút cũng không bao giờ khú. Mỗi khi mở vại dưa nén, lấy ra thái cho bữa ăn là mùi dưa cải thơm lừng quyến rũ, lan toả khắp năm gian nhà, ba gian bếp, thứ hương vị làm tứa nhiều nước chân răng.
Thời ở làng, tôi còn nhớ tên nhiều bạn chăn trâu cắt cỏ lắm. Họ có thể hơn, bằng, hay kém tuổi. Có thể thân nhau ý hợp tâm đầu hay ghét nhau tới mức cầm đòn gánh đuổi nhau, réo cả tên bố mẹ nhau lên mà chửi. Dù họ còn đang vất vả, đang ăn nên làm ra, hay đã an nhàn bên các cụ nơi chín suối. Nhưng với tôi, một ngày đã cắt cỏ, chăn trâu, chăn bò với nhau thì đều là bạn cả. Này Vinh Mùi; Sơn và Cường Thảo Bút; Cường và Quyết Hưng; Khung và Qui Hỷ. Xóm Rộc có Tuyết và Quyến Thảo Chất; Bé Ích; anh Ba câm; An và Đạt Tổng Tắc; Thịnh và Đức Khánh Bình; Hạnh Giai; Si và Tuấn Cơ; Vinh và Dần Huy; Chính và Tài Sinh Tương; Khánh Mười Trản. Mạn xóm trong có Nhật và Bản bò; Dũng Hà; Thăng ngọng; Vân dãi; Hải và Hùng ba Lai; Cường Vạn. Gần Văn Chỉ có Hạnh và Đức Cứ; Hưng và Giang Lồ. Duới xóm bốn, xóm năm còn có Đồng Hợp; Bằng Học; Hiển và Đạo Cuờng Qúi; Bích mẩu; Hạnh và Khả Chinh Huyến; ông Bề Bề, Luận Dược Ước; Xuân và Kim Triệu; Bảo và Trường Trúc Cân; Toản Thụy; Thìn Nhận và Ngọ Đen…, cả đám trâu bò cùng lũ trẻ nghịch ngợm tuổi thơ, lâu lắm rồi mà cũng khó quên nổi chúng. Mùa đông giá, mùa cày ải, chúng tôi xếp đất cày khô làm lò nhóm lửa cục rạ sưởi, nướng khoai ăn. Chăn trâu đồng A thì thân nhất có Vinh Mùi Hòe. Anh ta hơn tôi hai tuổi, dắt chú bò đực thiến lừng lững, lông màu vàng thẫm mượt óng, đẹp như ngựa xích thố. Trời rét, anh ta luôn bận áo trấn thủ, dáng cao lớn, hiền ít lời, tốt bụng nhưng cục tính. Mùa hè, chăn trâu đồng Bẫm thì có Xuân Triệu, Đồng Hợp, Dần Huy đều chăn những “đấng” trâu kềnh trắng (chẳng còn huý kỵ gì nữa) của Hợp tác xã. Còn “thím” trâu cái đen nhà Hạnh Thực Cứ thì nhỏ bé xấu xí nhưng nết ăn của nó thì đáng mến vô cùng. Cỏ non, cỏ già, cỏ uớt, cỏ khô … dù không ngon đến đâu nó cũng kỳ khu gặm một cách nhẫn nại chứ không một nhát đến tai hai nhát đến gáy như chú trâu kềnh đen khảnh ăn nhà tôi.
Mỗi khi cắt cỏ mà đi sau Tuyết Thảo Chất và Ngọ đen thì kể như gặp hạn lớn. Thằng bạn Ngọ Đen của tôi, nói the thé như con gái, người nhỏ thó lại cắt nhanh, dẻo mà khỏe vô cùng. Nó đầy gánh đi tểu rồi mà mình mới chưa được lưng quang, bực lắm chứ. Nhưng gần nó cũng học hỏi được nhiều mẹo vặt.
Gặp lại bạn học-bạn cắt cỏ Ngọ Đen sau 35 năm (Từ trái qua phải: Gocomay; vợ chồng anh Viện; chú Cả Nghị; anh Cường Vạn; Ngọ Đen) – Tại tư gia nhà QF người Lai Xá Đinh Văn Viện ở TP HCM tháng 2 năm 2006.
Nếu đánh rủi cua đồng Sai, câu nhái đồng màu hay soi ếch ban đêm mà gặp Ái Mèo thì cũng chẳng khác gì cắt cỏ mà gặp Ngọ đen hay Tuyết Thảo. Đi câu rô cùng Tuấn Cơ, khi nó chán nó rủ mà không về thì cũng khó trụ. Chẳng nhiều lời, nó tương ngay cho nửa hòn gạch bìa xuống hố thính thì rô với trê có mà chạy bán sống bán chết ấy, chứ câu với kẹo cái gì được nữa.
Sáng sáng tôi ra đồng, bắt đầu từ cổng ngoài đi ra là đồng Mã Cả. Qua mương Rộc Đìa đi sang là đồng Bồ Cóc (bên trái) và đồng Cối Mèn (bên phải). Lên Vuờn Chuối, vòng cây bàng đi xuống là Bờ Re, theo bờ mương tới Dền Rắn rồi sang Mỏ Phượng. Leo qua gò Đấu dài, gò Đấu tròn là tới Vườn Dậy (Trần Vậy). Phía xa là cánh đồng Chằm chạy dài mãi tới gần ngã tư Canh. Quay về ngược về đồng Nhổn qua đường cái quan sang phía Bắc là cánh đồng A; đồng Đăm. Quay về lại là Đuôi Cá; Cửa Khâu; Trũng Khoai; Dinh Cơ. Sang lại bên này đường nhựa là Chùa Do, xuôi về qua cây bàng là Đình Lỗ; Đình Diệc. Qua cống Mũi Bút; Lờ rồi leo qua đường Cái mới là sang đồng Sai mênh mông với chuôm lớn, chuôm nhỏ, Ao Cả bịt bùng. Đồng Sai chính là cái rốn nước lớn của toàn vùng. Bươn qua đồng Gờn, vòng trạm bơm rồi về lại Cống Lều, Cây Rầy, qua sân kho rồi sang bên kia đường là Rần Đống. Men đường cái mới (nay là đường QL 32) là tới Sau Hàng. Vòng qua Trũng Trên xuống Trũng Dưới vắt sang Đìa Các, qua Công Trường, lên Đống Sành; Năm Cửa; Hố Gạch. Trở lại bên này đường quốc lộ, qua hồ Rộc; giếng Cửa Đình … về Mã Mọn. Lên qua Mả Tháp; Chùa Sai là tới đồng Hổi; Chùa Hống. Từ đồng Giang về lại là đồng Bồ Câu, xuôi xuống phía làng Thìa là đồng Con Chim. Theo bờ vùng qua đồng Đinh; đồng Bàn ngược mương Đầu Sâu là về lại Bẫm; Giải Phướn. Men bờ kênh Trại là tới Gò Chùa cửa nhà thờ họ Phạm Đại Tôn. Theo lũy tre làng xuôi mương Bẫm là tới Cánh gà; Mom con cá. Xuôi chếch phía Đông Nam, qua cây Sữa cổ thụ, lần bờ vùng bờ thửa đồng Ải là sang Cầu Mưỡu. Trở lại mương Cối Mèn về hướng làng là đồng Cây Miến. Qua gốc muỗm già cụ phó Nghị là về lại cổng làng rồi.
Cảnh bừa ruộng ở đồng Mom nhìn về phía Đông Nam cánh đồng làng – GCM chụp đầu năm 2006
Thế là tôi đã bươn vừa đủ một vòng qua mấy chục cánh đồng to nhỏ quanh làng thân thương của tôi. To có khi tới cả trăm mẫu như đồng Sai. Nhỏ chỉ dăm bảy sào hay vài ba mẫu như Đình Diệc; Bờ Re; Cây Miến… Lúc này, bóng nắng đã tròn dưới chân tôi rồi. Tôi bước đi, đi mãi mà tưởng chừng không bao giờ thoát ra khỏi cái bóng đen tròn sẫm, vĩnh cửu của chiếc nón (mũ) lá mà tôi luôn đội trên đầu. Những trưa hè, nắng tháng sáu. Không phải một lần tôi nhìn thấy thế. Cũng không phải một lần mà tôi có thể đi hết được tất cả mọi ngõ ngách của cánh đồng cao thấp, khấp khểnh gò trũng như thế. Những công việc hàng ngày của nhà nông, nhàn như bắt sâu, nhổ cỏ lạc, tưới rau, xới đỗ, vun khoai. Nặng như đánh gộc tre, cày vỡ, đập đất, bừa cạn, tát nước, gánh phân, phát bờ cuốc góc, cất vó đêm, đánh rủi hay nhổ mạ ruộng lầy. Thơ mộng như chăn trâu cắt cỏ, chăn ngỗng, câu nhái, bắt châu chấu muồm muỗm cào cào, kéo vó tôm vó tép. Hay các bữa vác vồ, vác cúc (cuốc) lẽo đẽo theo sau chú Hỷ tôi đi tảo mộ mỗi dịp Đông chí. Nay chú tôi không còn, nhưng những lời chú nhắc, mãi mãi tôi không quên:“Đứa nào lười nhác, sợ mỏi chân mà chẳng chịu theo tao thì khi tao chết, lấy ai chỉ cho chúng mày nhớ hết tất cả mồ mả các cụ rải rác khắp các cánh đồng. Rồi bỏ bễ, không chăm chút, gặp người tham, nay một chút, mai một chút, nó xà, nó xẻo mà đưa luỡi cày liếm hết mất nấm. Mất mồ mả tổ tiên thì chỉ có mà lụn bại, con cháu muôn đời không bao giờ ngóc đầu lên được đâu!”
Không biết đã bao nhiêu lần, bóng tôi in trên đồng từ dài như con sào rồi co ngắn, vo lại, tròn hoảy dưới chân. Rồi lại vươn dài dần ra như con sào hay chả có bóng dáng gì rõ nét cả, chỉ còn tiếng rậm rịch của bước chân, chỉ tấm thân mờ ảo dật rờ lúc ẩn lúc hiện. Nhấp nhô, nhạt nhoà, chìm nghỉm trong sương, trong mưa, trong màn đêm không trăng sao trên các cánh đồng gập ghềnh quê tôi. Nhưng trưa hôm nay. Nắng lửa đổ rừng rực. Cái nắng tháng sáu. Cháy da sém thịt. Cả cánh đồng đang cày vỡ, mùi hương đất nồng nàn. Bóng tôi lại đang tròn. Tròn vành vạnh. Tôi cắm mặt, thở rốc, lặc lè quảy gánh cỏ nặng hơn cả trọng lượng thân mình, chúi đầu về cổng làng. Đổi từ bên phải sang trái, hết dọc, rồi xoay ngang. Cố lết, lết mãi, cũng tới được bóng đa đầu làng rợp mát rồi. Đặt uỵch gánh cỏ xuống chỗ đất bằng, tôi đánh bệt lên đám rễ đa nổi cuồn cuộn. Vài con trâu ngụp phì phì dưới ao, đuôi quật, vẩy vung nước cầu vồng. Con bò vàng nằm lim dim, quạt mo tai nhàn nhã, quai hàm nhai lại cỏ. Vài cô thôn nữ đi làm thủy lợi về, nới khăn vuông, xà cạp, ngồi, đứng, trò chuyện râm ran, vừa vung nón ngang đầu quạt lấy quạt để. Thấy mùi thơm quả đa chín đâu đây, thèm quá, tôi trèo lên một cành la sát mặt ao Chùa vạch lá, chọn những quả đa chín đỏ mọng, chưa sứt sẹo vì bị côn trùng chui vào đẻ trứng bẻ ra ăn vừa ngọt, vừa bùi. Những lúc mệt, đói lả, lót tạm dăm bảy qủa ngọt lành như thế, cũng cảm thấy lại sức, ruột đỡ cồn cào. Trước khi về nhà ăn cơm trưa, tôi lội xuống bậc gạch giếng nước, tay khoả lớp bèo ong dãn ra, vục chiếc nón lá già, khệ nệ bê lên rõ một nón nước đầy trong vắt. Vừa tợp vài ngụm nước mát, rồi rửa mặt. Tỉnh cả người. Lại gánh cỏ kĩu kịt về làng.
Trên cánh đồng làng thân yêu, từng ngõ ngách đầu gàu, đầu sâu. Bờ cao bờ thấp. Đồng màu đồng trũng. Chỗ nào có nhiều cỏ dây trắng, dây tía, cỏ xước, cỏ gà, cỏ mần trầu, cỏ gấu, cỏ mật. Tôi đều thuộc làu. Mỗi khi đang cắt cỏ mà được mấy bà thợ cấy vẫy lại nhờ xén bớt ngọn mạ trước khi đem cấy là vui như đi câu mà gặp cá diếc đi ăn theo đàn vậy. Ngọn mạ trộn với cỏ dây đã rửa sạch mà đóng gánh thì dôi và rất chóng đầy mà trâu bò cũng rễ ăn hơn. Gò đống nào, mùa nào có cỏ dầy, cỏ gianh, cỏ lông may già, tôi dùng cọc trâu kẹp, xoắn, vặn chặt từng đám mà nhổ bật gốc lên, đập sạch đất phơi khô, đem về đun đượm và thơm vô cùng. Mùa mưa thì xuống Đồng Sai hay Đồng Đinh cắt cỏ năn, rạy, lác, cỏ dường dường, thài lài, cỏ chân vịt, cỏ bợ, cỏ dừa, cỏ bẹ … những loại cỏ ưa nước. Mùa mưa xuân thì ra đồng cày ải hái rau lồng khúc về làm bánh khúc. Những trận mưa đầu hạ, cũng là thời khắc rau má, rau sam, chua me, rau rền cơm, rau muối, rau rệu, rau khoai lang, nhọ nồi, các thứ rau cũng là những thuốc Nam đồng nội, các đặc sản tự nhiên ấy là non và ngon nhất. Tôi biết rõ cả trai cánh, trai thịt, ốc vặn, ốc đá, ốc bươu… tháng nào thì sinh sản, lúc nào bắt về luộc hay nấu canh giấm chua là ngon nhất. Cua ở bờ ruộng nào, thửa ruộng nào, mùa nào thì béo và nhiều gạch. Trên các ruộng lúa Mùa, nước đầy, lúc lúa sắp trổ đòng đòng thì đem khoai sọ nướng thơm, bóc vỏ, nhào cám rang rây mịn, trộn mẻ lèn giã cho nhuyễn mà làm mồi câu cá rô đồng. Rô ron đi kiếm mồi theo đàn, câu một chốc là hàng vốc, đem về bấm bụng bỏ ruột, đem kho tương gừng hay rán giòn chấm nước mắm hạt tiêu chanh thì cứ gọi là thủng nồi trôi rế.
Tháng tám, tháng chín mùa trăng là đúng mùa câu thả. Khi bóng đêm vừa trùm xuống, tôi bí mật mang nắm cần câu được làm bằng thứ tay tre (trúc) đực già mà dẻo cắm dọc bờ kênh, ven các bờ hồ, bờ ao. Phải chọn loại dây dù hay cuớc thật dai, chỉ vừa đầy gang tay thôi. Lưỡi câu bén, ngạnh sắc, móc khéo vào thăn lưng, ngay dưới lớp da mỏng những chú săn sắt, rô ron hay cá trạch nhỏ. Phải kén con nào thật khoẻ, căn tầm cước vừa đủ để chúng bơi lượn là là sát mặt nước, tung tăng rất hấp dẫn để dử mồi câu cá chuối, cá sộp, cá chày… các loại cá ăn nổi.
Nhớ cái đận cuối mùa câu, một hôm, gió mùa đột ngột tràn về, lúc bốn giờ sáng, tôi đi thu gom cần câu thả đêm hồ sau Lái về, có lần tôi suýt vấp phải “xác nguời chết” vắt ngang đường. Hóa ra bà Huyền, người bác dâu trưởng chi hai họ Phạm nhà tôi, nằm bất động từ bao giờ. Người bác bê bết bùn, nón lá, khăn vuông cũng thế, ướt sũng. Tôi ném bỏ cả cá, cả cần lao vào vực bác dậy mà không tài nào nhấc nổi. Bác cứ nằm bất động, từ lúc nào, kiệt quệ, thi thoảng lại thều thào, khản đặc: “Cái…thằng…Lợi…Ngải,…Dung…Đàm,…Khương…lồ……chúng…..mày…..giết,…….giết…co…. con…tao…”
Đó cũng là một câu chuyện thương tâm, dai dẳng khủng khiếp, một thời. Giống như mọi làng quê, làng tôi cũng có những bà chua ngoa, xắn váy chõ mồm chửi bâng quơ xéo qua rào sang nhà hàng xóm, tục tằn không bút nào tả được,”chửi mất gà”. Nhưng làng tôi có thêm chuyện bác Huyền, người mẹ liệt sỹ, do quá thương đứa con trai yêu qúi ra đi không về, bà sinh ra oán ghét tất cả những ai bà cho là đã đẩy con bà tới chỗ chết.
Bà Huyền cũng chạc tuổi U tôi hay hơn chút ít. Bà sinh ra ở làng Vòng. Thời tuổi ngọc, cô con gái “cốm Vòng” là một hoa khôi đẹp nổi tiếng khắp Phủ Hoài đức khi xưa. Bà về làm dâu làng tôi vào một gia đình rất khá giả, nhà cửa vườn tược rộng rãi lại khuất nẻo sát luỹ tre làng. Trong kháng chiến chống Pháp nhiều cán bộ, du kích người làng thường lui tới ăn ở dầm dề “nhẵn đũa nhẵn bát” ẩn náu một cách an toàn tránh sự truy lùng của Pháp. Bà rất đông con, nhưng chỉ có anh Minh, anh Phạm Ngọc Minh, chàng trai trẻ cao lớn, trắng trẻo lại rất mực hiền ngoan, như thần tượng của biết bao thôn nữ, là được bà đặt nhiều hy vọng nhất. Ngoài việc nổi tiếng là một tay chơi diều sáo, bẫy và nuôi chim cu, chim ngói có hạng. Anh còn là một danh thủ tiền vệ xuất sắc trong đội tuyển bóng đá chân đất “bách chiến bách thắng” nổi tiếng toàn vùng.
Đợt tổng động viên năm 1967-1968, anh Minh phải tòng chinh, vừa chân ướt chân ráo vào chiến trường B, anh đã hy sinh. Sự mất mát qúa nhanh, qúa bất ngờ ập đến với bà Huyền là vô lý, bất công và qúa sức chịu đựng, khiến bà suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần… nên hằng đêm bất kể nắng mưa, gió rét, không ai có thể cản được người mẹ già đau khổ cùng cực ấy, cứ chống gậy lê dọc đi khắp đường làng – từ nhà bà (ở gần đuôi cá) tới cổng ngõ các nhà (ở tận gần đầu cá, mang cá) mà bà cho là thủ phạm gây nên cái chết của con bà. Vừa chửi bới, vừa nguyền rủa thậm tệ cả lò, cả ổ, gọi đích danh tên các vị chủ tịch, xã đội trưởng, công an và chánh văn phòng ủy ban xã … khi trước đã được bà che trở cứu mạng, những người bị bà kết tội “ăn cháo đái bát” là “đã giết con bà”…. Nhưng thần diệu thay, cũng chính nhờ tiếng chửỉ rủa độc địa, dai đỉa ấy mà ghế của các vị lãnh đạo chủ chốt ở địa phương lại cứ chắc như bàn thạch, cho dù con cái những “Hương Cống” khả kính ấy chả phải nếm mùi bộ đội. Chả bao giờ biết đến thế nào là gian khổ, đói khát, là chết chóc nơi chiến trường.
Mấy năm gần đây, khi thấy nhiều người khen bộ phim “Người vác tù và hàng Tổng”, phác họa chân dung một cán bộ trưởng thôn (như chức lý trưởng thời xưa). Tôi cũng cố tìm xem nó hay ở chỗ nào?. Về tay nghề của đạo diễn, tôi thấy Phí Tiến Sơn hóm mà khá chắc tay, xứng đáng vào tầm cỡ có học, có tài. Tôi không biết nhiều về con người Sơn, chỉ nghe họa sỹ Thẩm Đức Tụ nói, trước khi đi học quay phim ở Đông Đức, Sơn rất có khiếu nghệ thuật. Từ bé đã sớm nổi tiếng trong lớp “Trẻ em vẽ” ở Cung Văn hoá Thiếu nhi Hà nội. Sau này lại nghe tin Sơn cũng gốc Lai Xá. Nhưng do né tránh? Hay ít vốn sống làng quê? mà trong cái phim nói về người cán bộ nông thôn, đề tài hay vậy mà lại thiếu mất cái chi tiết, cái màn chửi (mà hoá ra phù hộ) đám “Người vác tù và hàng Tổng”, lạ và độc đáo như thế thì cũng là chuyện đáng tiếc lắm thay. (chọc ngoáy người đồng nghiệp cùng làng tý cho vui thôi nhe, he he…)
Mùa câu thả qua đi, khi gió heo may tràn về thì rang thính cho thơm, đào giun đồng cho nhiều mà đi câu cá riếc và cá loại cá ăn chìm. Tháng chạp giáp tết ta, đồng Sai cạn nước, cá trên đồng rút hết xuống khu rốn chuôm trũng thì mọi nhà có chuôm bàn rủ nhau mang cọc tre và ván gỗ be bờ, làm lều canh tại chỗ mà đêm ngày đổi phiên nhau tát chuôm, chia cá ăn tết. Có năm được mùa, cá nheo béo vàng to như bắp đùi, đầy cả gánh, mỗi chuôm thu hàng tạ, ăn cả mùa tết đâu có hết, lại muối cá, làm chượp, phơi khô ăn dần trong năm. Phải nói nhà nào có hoa lợi từ cổ phần cá ở chuôm đồng Sai cũng cảm thấy sung mãn nhờ những mùa tát chuôm háo hức, vui như trẩy hội ấy. Cá trắm, cá chép, cá qủa cỡ bự đồng Sai đem sắt khoanh lớn mà lót củ giềng già, hầm tương bằng củi gộc tre khô và trấu … để trang điểm cho mâm cỗ sang ngày tết thì phong lưu nhất mực rồi còn gì!
Mùa xuân chín. Rồi hè sang, những trận mưa rào vào tháng tư âm, lấy nước cho nông dân làm mạ Mùa, tôi mang vợt mang rổ ra đồng Bẫm, túi chứa nước mưa trong làng tuôn ra, đi hớt cá Trạch quấn nhau vật đẻ dưới ruộng nước đầy.
Xé màn mưa nổi bong bóng, đôi bàn tay dầm nước mưa đã răn héo, vuốt những hạt mưa nặng trịch quất chéo vào mặt rát ràn rạt. Lần theo vệt nước chảy tràn trề, rượt bắt các chú cá rô gụ đen chũi đang rạch ngược lách lên các bờ cao. Tôi lần mò rờ rẫm quanh các thân khoai ngứa ngập nước dưới rệ ao, mương thoát nước mưa từ làng ra đồng tìm ổ trứng cà cuống vừa đẻ, bắt cà cuống đực đem về nướng và lấy ngòi cay chế với nước mắm cá cơm, búng chút hạt tiêu, vắt chanh làm thành món nước chấm để ăn với bún rối hay bánh cuốn nóng chợ Trôi thì chả có thứ đặc sản bánh cuốn nào ngoài tỉnh thành mà sánh nổi.
Những hôm mưa dầm, không ra đồng được, U tôi hay rủ bà Ngọ Đầy ngâm gạo xay bột làm bánh đúc. Chẳng phải dân hàng chợ mà U tôi chế biến món bánh đúc lạc cũng ngon có tiếng. Gạo tẻ ngâm nước vôi vừa tỷ lệ, xay bột thật nhuyễn, lọc kỹ, bỏ vào dúm muối, một chút hàn the thôi. Trước khi bắc lên đun thì phải tôi nồi cho kỹ bằng mỡ chài thì bánh mới thơm và dóc cháy. Lúc quấy bột phải luôn tay, đun đều lửa, rồi cho lạc nhân đã đồ chín đãi sạch vỏ. Khi bánh vừa chín tới thì lót lá chuối tươi đổ ra mẹt. Chờ bánh đúc se mặt cắt từng miếng, bẻ chấm ăn với thứ nước tương dầm chút ớt qủa khô cứ gọi là giòn ngọt, hơi cay nồng, lại ngầy ngậy bùi bùi … Món bánh đúc cắt nhỏ bằng đốt ngón tay mà chan canh riêu ốc, riêu cua nóng thì tuyệt hảo. Còn cháy bánh đúc nóng lại là món nghiền nhất của tôi, nó ròn, dai, thơm mà đậm đà! Chả có thứ bánh đa nào có thể ăn đứt được?
Dáng bà cụ này giống hệt hình bóng của U tôi lúc còn sống (Hình minh hoạ)
Thương U tôi vất vả, cực nhọc quanh năm đầu tắt mặt tối, tôi phải lăn vào giúp mẹ tới sụn cả lưng mà không than vãn, kêu ca. Vẫn ham học. Bởi cứ nghe bà nói: “cá không ăn muối cá ươn, người không ăn nhời (chữ) thì suốt đời bán mặt cho đất bán lưng cho giời thôi con ạ!”. Cứ nghĩ đến cái thiệt, U tôi, không có chữ, lưng còng gập, thương tích đầy người, cả đời lam lũ mà chẳng bao giờ ngóc đầu lên được, lại rùng mình.
Tôi cố gắng học để khỏi chôn vùi tương lai nơi chốn ao tù nước đọng nơi xứ cỏ lông may khốn khổ này.
(còn nữa)
- Xem Phần 1 ở đây: 673 – Quê tôi xứ Đoài mây trắng lắm! (1)
– https://gocomay.wordpress.com/2011/08/31/673-que-toi-x%E1%BB%A9-doai-nhi%E1%BB%81u-may-tr%E1%BA%AFng-l%E1%BA%AFm-1/______________________
Filed under: Điạ danh lịch sử | Tagged: Kim Chung > Chùa Sai > Đình Đụn > An Sinh Vương > Trần Liễu > Vườn Chuối, Lai xá | 5 Comments »