801 – Đảng ta hơn ở chỗ vẫn còn nhiều người tốt?

37

Dạo này nhận Job (việc) mới, bận tối ngày. Nên cũng có phần sao nhãng việc đàn sáo (gõ phím). Nhưng hôm nay, tình cờ vào Quê choa đọc được Chuyện mấy cái phong bì của Phan Chi khiến mình lại tủm tỉm cười và có hứng loạn bàn chút cho đỡ “nhạt miệng” (chữ của NQL). Chứ cái thá vô công dồi nghề như mình, hơi đâu mà mua dây buộc cho nhọc lòng…

1.- Thời còn ở làng, hàng năm cứ đến lễ Hội chùa Thày (7/3 âm lịch) là mình hay cơm nắm muối vừng theo các anh chị đi trẩy hội. Nhớ dạo đó tinh đi bộ chứ làm gì đã có đủ xe đạp mỗi người một chiếc mà đi. Từ nhà đến núi Thày, đi tắt qua bãi Giá cũng phải tới mươi cây số. Nhưng cứ nghĩ tới cảnh được trèo lên các tảng đá tai mèo chênh vênh mà ngắm xuống khung cảnh chùa chiền, làng mạc và cánh đồng bên dưới là lòng mọi người lại háo hức một cách lạ kỳ. Không biết nhà thơ nổi tiếng xứ Đoài – Quang Dũng (quê Đan Phượng) thời ở làng có giống tâm trạng của tôi không? Nhưng khi đọc tới cái câu “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn/ Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng” trong tuyệt phẩm nổi tiếng Đôi mắt người Sơn Tây thì tôi tin cái đẹp hoang sơ của tuổi ấu thơ ở một vùng đầy ca dao ổ tích như xứ Đoài, người nào kinh qua chả cảm nhận được.

Cho đến một năm, khi tôi đã đi thoát ly được vài năm rồi. Hôm rủ bạn bè từ thành phố đạp xe ngót ba chục cây số về thăm lại núi Thày ngay sau hội chùa hàng năm. Chúng tôi lại leo ra các mỏm đá chơi vơi thi nhau chụp ảnh kỷ niệm. Đói lại trải báo lên các mỏm đá tai mèo, nơi có các tán cây hoa đại (cây bông xứ) để dùng bữa trưa một cách ngon lành. Vừa ăn vừa ngắm lúa vàng đang sắp vào vụ thu hoạch bên dưới. Khi vừa ăn xong, lúc thu dọn chiến trường thì phát hiện ra bên dưới các tảng đá thơ mộng đó là vô số các bãi phân khô (chắc do các du khách đi trẩy hội gửi lại) ở trong các khe đá được phủ những túm lá khô tai tái ngụy trang bên trên nên chả ai phát hiện được. Vậy mà bữa ăn vẫn ngon lành như thường. Thế mới biết cái câu “khuất mắt trông coi” là thế!

2.- Vào mùa xuân năm 1976, tôi cùng Lê Định và Vi Kiến Hoà (Hoà là thân phụ của nhà thơ Vi Thùy Linh) lên làm phim tốt nghiệp ở Trường Thanh Niên Lao Động XHCN Hoà Bình. Được ông Lượng – Bí thư đảng ủy và anh Xum hiệu phó đón tiếp rất thịnh tình và đưa đi quay ở tất cả các cơ sở vừa học vừa làm của nhà trường. Lên phân hiệu 2 rộng mênh mông bát ngát ở Tu Lý – Đà Bắc thấy hàng loạt gốc dâu và gốc canh-ki-na cổ thụ bị đánh bỏ để chổng ngược trên các bờ ruộng ven đường. Hỏi ra thì được biết đó là hậu qủa của các chỉ thị (tùy hứng) của các vị lãnh đạo cao cấp nhất của đảng và nhà nước mỗi khi lên thăm nông trường cứ phán bừa là phải trồng cây gì và nuôi con gì khiến thầy trò cả trường bị nhiều phen khốn đốn. Nay không thu được chút lợi ích kinh tế nào đành phá bỏ toàn bộ để quay lại trồng sắn và xu hào cứu đói cho học sinh. Năm 1979 khi tôi xin chuyển về làm việc tại Hãng phim TL&KH TW, kể lại chuyện đó cho anh em nghe, anh Thiệu (lúc đó làm quản đốc) cho biết chuyện đó các anh ấy cũng chẳng lạ gì. Anh kể, hồi ông Tố Hữu còn đương kim trưởng Ban tuyên huấn TW, một hôm xuống thăm Thái Bình, lúc qua phà Tân Đệ, anh lái xe tranh thủ lúc chờ phà chạy đi mua chuối về đãi thủ trưởng. Thời đó ở khắp Miền Bắc chuối tây người ta cắt ra bán theo túm, mỗi túm từ 2 đến 3 qủa. Ông Tố Hữu vừa ăn vừa hỏi anh lái xe kiêm cần vụ là mỗi túm như thế giá bao nhiêu? Anh lái xe nhanh trí nói 3 hào (thực tế là 5 hào) cho thủ trưởng đỡ xót. Vậy mà ông Lành đã nổi cơn tam bành nói: “chết.. chết thật, một túm chuối nhỏ xíu mà giá tới 3 hào, đắt bằng một bữa ăn tập đoàn…”. Ngay sau chuyến đi đó về ông cho gọi tất tật các cơ quan báo đài lên họp (trong đó có xưởng phim TL&KH) và chỉ thị phải ngay lập tức tuyên truyền rầm rộ cho các địa phương phải đẩy mạnh nuôi trồng 3 con và 3 cây. Trong đó chuối là một trong những cây được đặc biệt quan tâm…

3.- Một bộ phim hay khá hiếm hoi của điện ảnh xứ mình – phim Bao giờ cho đến tháng mười, tôi thấy ấn tượng đặc biệt với hình ảnh ông bố chồng cô Duyên (do Lại Phú Cương đóng). Có một chi tiết Đặng Nhật Minh xử lý khá đắt mà tôi để ý chưa thấy các nhà phê bình phim nào đề cập tới. Đó là chi tiết ông già tay run rẩy sờ vào khẩu súng lục đeo bên hông của cái anh bộ đội mà Duyên nhờ đóng giả chồng mình (đã chết) từ Cam-pu-chia trở về vào cái phút lâm chung của ông già đau khổ. Và ông ta đã được mãn nguyện trước khi nhắm mắt xuôi tay để về với tổ tiên. Khi mắt đã mờ nhòa mà bàn tay run rẩy vẫn cố gắng quở quạng chạm được vào cái bao da đựng khẩu súng ngắn anh bộ đội cùng đơn vị (mà cô Duyên nhờ) để cố lừa ông lần cuối (như đã từng lừa ông bằng những bức thư giả mạo nhờ thầy giáo làng viết giúp bấy nay) để mong ông được thanh thản phiêu diêu nơi tiên giới trước khi từ giã cõi trần. Thật kỳ lạ cái đứa con trai giả mạo vừa từ chiến trường khốc liệt trở về với súng lục đeo hông (biểu tượng sự thăng tiến trong quân ngũ) đã khiến ông trào nước mắt sung sướng. Vết thương chiến tranh, vết thương sâu nặng trong tâm con người đau khổ ấy coi như đã được vá lành trong cái phút tử biệt sinh ly! Dù đấy chỉ là một trò lừa của những người thân cùng bất đắc dĩ phải làm…

4.- Chuyện mấy cái phong bì của Phan Chi có đề cập tới việc ông Bách (Trần Xuân Bách) đã bị mấy cái phong bì (nói dối) mà trước khi chết vẫn tấm tắc khen: “Đảng ta hơn các đảng khác ở chỗ chúng ta vẫn còn nhiều người tốt”. Những ai đã đọc cuốn Bên thắng Cuộc (Chường 13 – Phần 2 – Quyền bính) thì sẽ càng rõ hơn tại sao lúc ông Bách không còn bổng lộc như thời “lên voi”, bà vợ trẻ của ông cựu Bí thư TW đã phải đi làm thêm vào ban đêm để phụ cho bữa cơm hàng ngày của gia đình đỡ bị bôi bác. Những điều dấu diếm (nói dối) nhỏ đó chắc cũng đã phần nào củng cố cái niềm tin (hão) cho một ông “vua thập thể” khi bị thất sủng vẫn tin rằng chế độ do ông tạo dựng vẫn không đến nỗi qúa cạn tàu ráo máng qúa đối với người đã ngã ngựa như ông. Ông đã nhắm được mắt để về cõi vĩnh hằng.

Ông Lê Hiếu Đằng trong lần tham gia biểu tình với các bạn trẻ (mùa hè 2011)

Ông Lê Hiếu Đằng trong lần tham gia biểu tình với các bạn trẻ (mùa hè 2011)

5.- Mấy hôm nay trên các diễn đàn báo chí quốc doanh như các báo QĐND; Nhân Dân; Đại Đoàn Kết và Công An Nhân Dân đã công kích dữ dội lên bài viết Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh… của ông Lê Hiếu Đằng mà không hề dẫn lại nguồn. Khiến tôi phải tìm đọc lại trên mạng một lần cho biết. (Xem  ở đây). Thực ra những vấn đề ông Đằng nêu ra chả có gì mới mẻ cả. Đó thuần túy chỉ là sự công khai quan điểm cá nhân để gọi là “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân… một cách minh bạch, sòng phẳng như cách nói của ông Đằng. Nó như tiếng lòng của một người đã đi theo đảng ngót nửa thế kỷ. Nay quỹ thời gian cũng chả còn được là bao, lại đau yếu bệnh tật. Ông muốn mình và mọi người có suy nghĩ giống ông dứt khoát quan điểm một lần nhằm sửa lại những gì mà ông và đảng của ông đã gieo tai ương (dù vô tình hay cố ý) lên quê hương xứ sở và đồng bào mình. Những lời từ đáy lòng ông như lời một người gần đất xa trời. Như tiếng khẩn thiết của một con chim kêu lên những tiếng bi thương và chân thật trước khi vĩnh biệt sự sống. Vậy mà…

Nếu so với Trần Xuân Bách hay Trần Độ, ông Lê Hiếu Đằng không phải là đối thủ nặng ký của giới chóp bu trong chính quyền CS đương thời. Trong thâm tâm, tôi đảm bảo giới lãnh đạo CS cũng chả thù oán cá nhân gì với một ông già chỉ ở tầm lãnh đạo bậc trung có tư tưởng cấp tiến đã về hưu, từng theo đảng tới già nửa đời người nay không còn tha thiết gì với tổ chức đảng (thời buổi chợ chiều) nữa. Nhưng cái sợ của giới chóp bu là nếu để ngọn cờ tầm tầm bậc trung ấy mà tập hợp được một lực lượng đông đảo các đảng viên ly khai trở thành một lực lượng đối lập nặng ký nhằm cạnh tranh ảnh hưởng về mặt chính trị với ĐCS đang trị vì thì đó sẽ là một tai hoạ nhãn tìền. Vì thế những tên “lính gác” tư tưởng của đảng ở báo QĐND; Nhân Dân; Đại Đoàn Kết và CAND với phương châm “còn đảng còn mình” đã được lệnh tấn công và bôi nhọ bằng mọi giá vào con người và tư tưởng của Lê Hiếu Đằng. Nhằm tiêu diệt cái mầm đối lập (mà đảng không bao giờ chấp nhận) để tránh mọi hậu hoạ về sau.

Như vậy chẳng nói ai cũng rõ, nếu cứ khuất mắt trông coi như vụ dùng xong bữa (mà vẫn thấy ngon) ở đỉnh núi chùa Thầy. Chuyện các gốc cây cổ thụ ở trường Thanh niên LĐXHCN Hòa Bình hay túm chuối đắt hơn cả bữa cơm tập đoàn ở Tân Đệ. Chuyện công kích lại việc “tính sổ” của ông Lê Hiếu Đằng… đã chứng tỏ những “đỉnh cao trí tuệ” của hệ thống quan liêu này luôn độc quyền chân lý và không bao giờ chấp nhận thực tiễn sinh động của cuộc sống đang diễn ra một cách khách quan khoa học hàng ngày.

Bởi bất kỳ thể chế toàn trị nào mà chả muốn bưng bít mọi thông tin và bắt muôn dân phải tin theo một thứ định hướng chủ quan mà không có một phản biện xã hội nào được phép tồn tại và thách thức lại  ý chí sắt đá của tầng lớp cai trị độc quyền. Trong bối cảnh u ám ấy chuyện mấy cái phong bì và những bữa ăn ít biến động trong mâm cơm hàng ngày trong câu chuyện ông Trần Xuân Bách bị thất sủng mà vẫn giàu trí tưởng thật về thể chế và tình người trong cái tổ chức sắt máu (qua câu ngộ nhận: Đảng ta hơn các đảng khác ở chỗ chúng ta vẫn còn nhiều người tốt) đã tự nó nói lên tất cả bản chất của sự việc rồi.

Trong câu chuyện phút lâm chung của ông bố chồng cô Duyên (Bao giờ cho đến tháng mười) lại đem đến cho ta một cảm nhận khác về mối quan hệ giữa thật và giả. Đôi khi sự dối lừa ngọt ngào còn giúp con người ta chữa lành các nỗi đau. Sự tuyệt vọng để giúp nhau cùng tồn tại trong cuộc sống vốn đầy tai ương bất hạnh. Như vậy ai dám bảo bất cứ cái dối gian nào cũng đều đáng trách? Khi những điều bất đắc dĩ ấy nó không chỉ là yếu tố tâm lý, chính trị mà còn tiềm ẩn cả yếu tố văn hóa tâm linh của dân tộc mình ở trong đó nữa.

Mặc dù vậy, đứng về mặt chính danh, một hệ thống mà chuyên dùng bạo lực và lừa mị để biện minh cho sự tồn tại của mình. Hệ thống ấy trước sau cũng sụp đổ. Có điều nó sẽ theo kịch bản nào?

Là con dân luôn nặng lòng với quê hương, ai chả muốn sự chuyển đổi ngọt ngào. Để chả bao giờ phải bị giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò…

Gocomay

___

PS:

Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…

– http://boxitvn.blogspot.de/2013/08/suy-nghi-trong-nhung-ngay-nam-binh.html

Ông Lê Hiếu Đằng: Báo Quân đội Nhân dân ‘bỏ bóng đá người’

– http://www.voatiengviet.com/content/ong-le-hieu-dang-bao-quan-doi-nhan-dan-bo-bong-da-nguoi/1735937.html

Sự quẫn cùng về phương pháp định hướng dư luận của ba tờ báo lớn: Nhân dân, Quân đội Nhân Dân và Đại Đoàn Kết

– http://www.basam.info/2013/08/24/1988-su-quan-cung-ve-phuong-phap-dinh-huong-du-luan-cua-ba-to-bao-lon-nhan-dan-quan-doi-nhan-dan-va-dai-doan-ket/

AI VỤNG VỀ HƠN AI?

– http://www.basam.info/2013/08/24/1989-ai-vung-ve-hon-ai/

BÁO QĐND “ĐÓI ĂN VỤNG, TÚNG LÀM LIỀU”?

– http://boxitvn.blogspot.de/2013/08/bao-qnd-oi-vung-tung-lam-lieu.html

LS Trần Vũ Hải gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bản Dự thảo Ý kiến về Thành lập và Tham gia đảng phái

– http://www.basam.info/2013/08/22/1981-ls-tran-vu-hai-gui-uy-ban-thuong-vu-quoc-hoi-ban-du-thao-y-kien-ve-thanh-lap-va-tham-gia-dang-phai/

* * *

QUỶ SỨ, CÒN GÌ MÀ PHẢI GIẤU NỮA CHỨ?!!!

Nhiều sai lầm, lệch lạc trong bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằng (09:09:00 24/08/2013)
Sự thật không như những điều anh Lê Hiếu Đằng suy nghĩ (24/08/2013)
“Màn tung hứng” vụng về (QĐND – Thứ Sáu, 23/08/2013, 0:45 (GMT+7)
Khi người bệnh sám hối (23/08/2013)
__________________________

750 – Bao giờ mới hết oan khiên Xứ Đoài?

Đình Chàng (đình Chu Quyến) Xứ Đoài

Hôm nay, trong khi triều đình đang thiết đại triều để bàn những việc cơ mật “rất quan trọng và phức tạp” như TTXVN đưa tin. Tự dưng thấy bác Trọng Tạo cho đăng lại bài thơ cũ mà vẫn rất thời sự của nhà thơ Nguyễn Thái Sơn (*) khóc than cho “nỗi bể dâu Xứ Đoài” (Kỷ niệm “Tử Nhật”/ Giỗ kỵ lần 4) với những vần thơ ai oán thế này:

Lụa tằm còn có ai mua ?

nón Chuông chắn nắng che mưa mấy người ?

bạc năm đánh đổi vàng mười

mẹ ta khóc khóc cười cười giữa đêm

 

Thôi thì đợi nữa chờ thêm

biết đâu chân cứng đá mềm. Biết đâu…

Những điều khóc cười mà người dân Xứ Đoài nói riêng và người dân cả nước nói chung đang mục sở thị ngày hôm nay đã được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cảnh báo từ ngày 30/4/2008 với những lời gan ruột như sau!

Xin trích:

Cố TT Võ Văn Kiệt (1922-2008)

“Theo tôi, Thăng Long – Hà Nội với nghìn năm lịch sử phong phú, hào hùng, với văn hóa được tích lũy nhiều đời, không phải thủ đô nào trên thế giới cũng có được. Hà Nội không nhất thiết phải lựa chọn mô hình đầu tàu kinh tế, việc mà nhiều địa phương có nhiều thuận lợi và có khả năng làm tốt hơn Hà Nội nhiều.

Mặt khác, mô hình đô thị cực lớn với động lực công nghiệp là một mô hình đô thị đã cũ, nhiều sai lầm mà phương Tây đang phải từ bỏ. Chính những thành phố có hàm lượng văn hóa cao, có đời sống đô thị giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành, có nhịp sống hợp lý, làm giàu bằng kinh tế tri thức mới là mô hình mà các nước đi trước chúng ta đang tìm kiếm.

Thủ đô Thăng Long – Hà Nội có đủ những yếu tố đủ để xây dựng cho mình một thành phố như thế. Thay vì chọn một mô hình đô thị khổng lồ với vô vàn vấn nạn, từ tắc nghẽn giao thông đến ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, thị trường đất đai rối loạn cản trở phát triển kinh tế như nhiều đô thị lớn trên thế giới đang gặp, Hà Nội nên chọn cho mình mô hình một thành phố lịch sử, văn hóa, đầu tàu về khoa học – kỹ thuật tiên tiến, có quy mô vừa phải, hợp lý, có môi trường đô thị trong lành, văn minh, công bằng, dân chủ, đủ năng lực khai thác, ứng dụng những thành tựu khoa học tiên tiến của thời đại trong xây dựng, quản lý vận hành, ngõ hầu tạo dựng một môi trường sống lý tưởng.

Một mô hình đô thị không cần nhiều đất đai mà cần nhiều hơn những giá trị đạo đức, nhân văn, nhân tài và chất xám. Đấy mới chính là “hướng nhìn – tầm nhìn” của nghìn năm Thăng Long và của thời đại.”

(Võ Văn Kiệt- http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2008/05/3ba01e27/)

Không biết có phải vì sự “trung ngôn nghịch nhĩ” này mà chỉ hơn tháng sau, ông Sáu Dân bị “kiệt” (đột qụy) và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 11/6/2008. Để đúng cái ngày định mệnh – 1/8/2008 Hà Nội vẫn được mở rộng thành một trong những thủ đô có diện tích lớn vào bậc nhất thế giới hay không?

Thiết nghĩ câu hỏi này để lịch sử trả nhời!

Còn May, một cư dân nhỏ bé sinh ra và lớn lên ở Xứ Đoài thì cũng chỉ biết than khóc cho một vùng ca dao, cổ tích. Vùng “địa linh nhân kiệt”… đang trở thành vùng đất oan khiên làm mẹ ta khóc khóc cười cười giữa đêm thôi.

Chùa Thầy (Sài Sơn) – Di tích danh thắng của Xứ Đoài

Tại Sài Sơn, quê hương của nhà bác học uyên bác nổi tiếng Phan Huy Chú (đầu Thế kỷ 19), những dự án “qui hoạch đô thị mới” bao gồm các hạng mục “hoành tráng” như sân golf, khu vui chơi giải trí, khu biệt thự, chung cư, trung tâm thương mại, khách sạn 5 sao,… làm đảo lộn cuộc sống của một vùng cư dân ven dòng sông Đáy hiền hoà từ bao đời đã đi vào trong kiệt tác của Thi nhân Quang Dũng (“Lên núi Sài Sơn ngắm lúa vàng“). Như dự án Tuần Châu đã nuốt mất 254ha. Lại thêm hàng chục các dự án bất động sản liên quan đến khu đô thị, biệt thự, nhà vườn, khu công nghiệp… đã ôm tới gần 460ha, tức gần hết đất nông nghiệp của xã có 17 ngàn dân ở đây. Khiến dân chúng trở thành “nhàn cư” trên chính mảnh đất vốn một nắng hai sương của mình.

Đơn cử như trường hợp anh Nguyễn Hữu Lệ, ở xóm Tường, thôn Thuỵ Khuê có vợ là chị Nguyễn Thị Thanh đã bị bắt giam ngày 23.4.2009 bởi ba chiếc xe công an. Lý do, theo chính quyền địa phương, là tội gây rối trật tự công cộng: “Thanh đã cùng với nhiều người địa phương khác có hành động quá khích khi phản đối chính quyền xã xây dựng nhà văn hoá”. Song theo người dân, nguyên nhân là sâu xa hơn: “Chị ấy khăng khăng đấu tranh không chịu mất đất cho các dự án”. Chị Thanh bị bắt giam chờ ngày ra tòa. Trong lúc đứa con nhỏ mới ba tuổi gầy xanh sau hai lần cấp cứu vì khóc đòi mẹ. Khiến anh Lệ mới 43 tuổi đã bạc trắng tóc chỉ sau cái đêm vợ anh bị bắt.

Có người dân gắn bó cả đời với cánh đồng “bờ xôi ruộng mật” của Sài Sơn than rằng: “Phát triển gì mà đẩy hàng ngàn nông dân chúng tôi ra rìa. Còn mồ mả cha ông, còn nền văn hoá của xứ này thì sao?…” (Theo nguồn: Hà Nội sau một năm mở rộng: Thương tiếc đồng quê – http://ashui.com/mag/tuongtac/goc-nhin/1132-ha-noi-sau-mot-nam-mo-rong-thuong-tiec-dong-que.html)

Di tích Lý Bát Đế ở Đền Đô – Bắc Ninh

Lần giở lại lịch sử, vào thời Lý, ở nước ta có lệ phong đất cho những người có công to với đất nước bằng cách “phóng lao”. Người được phong chọn một đỉnh núi cao rồi phóng cây lao bay xa hết mức có thể, bay xa bao nhiêu thì vua cấp bấy nhiêu đất, đất phong này gọi là “đất phóng lao”. Trước khi thủ đô Hà Nội được mở rộng thêm gấp 3,6 lần, các quan ở tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và bốn xã của huyện Lương Sơn (tỉnh Hoà Bình) cũng mở một đợt “phóng lao” như vậy. Chỉ khác là con cháu ngày nay hiện đại hơn các cụ ngày xưa, chẳng cần tốn cây lao nào mà chỉ cần có chức quyền trong tay. Chỉ cần biết ký tên và đóng dấu, trong một thời gian ngắn, các quan hàng tỉnh (như Hà Tây, trước khi mất phiên hiệu) đã kịp phê duyệt 772 dự án, giao 76.695ha đất dù những cá nhân và công ty được phong đất có lẽ không có công lao đến cỡ “vị quốc vong thân” như các bậc danh tướng ngày xưa.

Vua nhà Lý dùng lao phong đất thì quốc thái dân an, người người đều phục còn các quan tham ngày nay đua nhau “phóng” (bút) xong thì dân trở thành trắng tay ngay trên mảnh đất hương hoả của tổ tiên.

Như vậy lối tư duy “phong đất thủ đô” quỷ quái, các quan tham đã “khả uý” hơn “tư duy phong đất” của thời phong kiến ở chỗ: Xưa, toàn bộ đất đai là thuộc sở hữu của nhà vua, dân chỉ là người đi mướn đất của vua để cày cấy và phải nộp tô thuế, đi phu đi lính. Nay, theo luật, “đất đai là sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”. Nhưng các quan lại lấy cớ đại diện (thay mặt) dân để “quản lý” theo kiểu giống như ông vua đem đất đai “sở hữu toàn dân” phong cho một số cá nhân và công ty sân sau trong nhóm lợi ích của chính họ. Quyền lực giao đất của các ông vua này được đảm bảo bằng quy định: “Nhà nước thu hồi đất khi có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế”. Nhiều người dân vì cái “lợi ích” mơ hồ này mà sáng ngủ dậy bỗng mất đi mảnh đất bao năm gắn bó và thấy mình trở thành những cư dân không “tấc đất cắm dùi”.

Ngày 8-5-2008, trước khi giải thể, UBND tỉnh Hà Tây đã tranh thủ ra Quyết định số 1177/QĐ-UBND thu hồi 381.670,1m2 đất 2 lúa của dân tại xã Kim Chung và Di Trạch (Hoài Đức-Hà Nội) giao cho CTCPTM Vietracimex xây dựng khu Đô thị mới. Hiện đang là “Dự án treo” mà báo Người Cao Tuổi đã đặt nghi vấn: “Khu Đô thị mới Kim Chung – Di Trạch” là dự án thật hay dự án… “chui”? (Nguồn: http://www.hungha.com.vn/)

Người nông dân về bản chất là sống an phận trong luỹ tre làng theo kiểu “đèn nhà ai nhà ấy rạng”. Nhưng lại rất “tình làng nghiã xóm” trong các sinh hoạt cộng đồng. Chính CNCS du nhập vào nước ta đã làm đảo lộn mọi trật tự, phá vỡ cấu trúc xã hội ở làng quê, định hình từ ngàn năm trước. Khi người CS đưa học thuyết đấu tranh giai cấp vào để giải quyết các mâu thuẫn, khó khăn tức thời (mang tính tất yếu) nẩy sinh trong sự phát triển. Cái khẩu hiệu “trí phú địa hào/ Đào tận gốc trốc tận rễ” của Cao trào CS 1930-1931 ở Nghệ Tĩnh (Xô Viết Nghệ Tĩnh) đã chứng minh rất rõ điều này.

Những tiêu chí “ruộng đất cho người cày” và “nhà máy cho thợ thuyền” thực chất chỉ là trò bịp để lừa người lao động, giúp người CS leo lên đỉnh cao quyền lực. Có quyền sinh sát rồi thì người CS quay lại cướp đất của nông dân và nhà máy của công nhân bằng “Hợp tác hóa” và “Cải tạo Tư sản” khiến người lao động cả ở nông thôn và thành thị dần lâm vào cảnh sống cơ cực hơn cả thời Thực dân-Phong kiến.

Khi mô hình sản xuất “Kế hoạch-Tập trung” của CNXH thất bại, buộc người CS phải “đổi mới” (thực chất là quay lại mô hình s/x cũ). Nay với cái gọi “Kinh tế Thị trường định hướng XHCN” những người (mang danh CS) đã dùng chiêu “phong đất” kiểu rất XHCN: “Nhà nước thu hồi đất khi có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế”… còn tệ hại hơn nhiều lần thời phong kiến sơ khai.

Mô típ Sắc- Không rất phổ biến ở các chùa Xứ Đoài

Về mặt từ nguyên, phong kiến là từ ghép của phong tước và kiến địa (hay phong hầu và kiến ấp). Các vua chúa thời xưa thường phong tước cho những người thân thích, người có công. Đồng thời chia (ban thưởng) đất đai cho những người này để khuyến khích và động viên kẻ sỹ chăm lo kiến tạo quốc gia (xã tắc) cường thịnh. Trong đó người dân được sống an vui (“Vua Nghiêu Thuấn / Dân Nghiêu Thuấn / Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền” – Nguyễn Trãi).

Nhà nước phong kiến thường lấy tôn giáo làm cơ sở lí luận cho sự thống trị của mình. Còn ngày nay, với tệ hối mại quyền chức (“phong tước“) và lợi ích nhóm chia chác đất đai và tài nguyên (“kiến điạ“) theo tôn chỉ (tôn giáo) Mác-Lê đã đẩy đa số nông dân và người cần lao (lực lượng chủ lực của cách mạng giải phóng) và cả những công thần bất đồng ý kiến lâm cảnh “tứ cố vô thân”. Không còn tư liệu sản xuất đa số nông dân trở thành nô lệ mới trên mảnh đất đẫm mồ hôi và cả máu của cha ông và chính bản thân mình!

Vậy nên lòng mong ước: “bao giờ cho tới ngày xưa” của người Xứ Đoài nói riêng, người dân Việt nói chung khi nào mới có Chúa ngay, Tôi hiền. Để: Sơn Thần về lại Tản Viên /  lại vuông tròn, hết oan khiên Xứ  Đoài ???

Gocomay

____

(*) THÔI THÌ CHỜ NỮA ĐỢI THÊM…


Hai năm “Tử Nhật” Hà Tây

rồi ra, cứ đến tiết này lại đau

hội vui “quốc khánh” nước Tầu

lại trùng với nỗi bể dâu Xứ Đoài 

 

Vẫn áo nhuộm, vẫn ngô khoai

Sài Sơn núi lở, Suối Hai nước tràn

còng lưng đá đẽo, mây đan

Bối Khê mẻ tượng, Trăm Gian xiêu chùa

 

Lụa tằm còn có ai mua ?

nón Chuông chắn nắng che mưa mấy người ?

bạc năm đánh đổi vàng mười

mẹ ta khóc khóc cười cười giữa đêm

 

Thôi thì đợi nữa chờ thêm

biết đâu chân cứng đá mềm. Biết đâu…

bể dâu ngóng đợi bể dâu

phượng hoàng rũ lửa, cất đầu, lại bay

 

Thôi đành ngóng tháng mong ngày

may ra lại có Chúa ngay, Tôi hiền

Sơn Thần về lại Tản Viên

lại vuông tròn, hết oan khiên Xứ  Đoài !

NTS (Theo blog NTT)

___

Xem lại ký ức về xứ Đoài của Gocomay:

___________________

Gocomay's Blog

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ