“Tôi muốn hoả táng. Tôi thích rải cốt tôi xuống sông Đồng Nai, gần nơi tôi sinh ra. Nhưng tùy họ quyết định”.… “Tôi không muốn ai thăm viếng mộ tôi. Người ta nên dành thì giờ và năng lực cho những điều hữu ích hơn. Tôi giống như ông Hồ Chí Minh; ông ta cũng không muốn có lăng tẩm gì”.
“Tôi không bao giờ là nhà cách mạng. Tôi là một kẻ lãng mạn, yêu thương thiết tha quê hương tôi và mong muốn bảo vệ đất nước mình cho đến chết”.
“Tôi thích chính trị. Tôi không thích chính trị gia. Nếu anh muốn giết con chó, anh nói vì con chó bị dại…”
(Lời Phạm Xuân Ẩn)
“Tôi vẫn kính trọng anh, Ẩn, như là một người bạn, một nhà báo, một phức thể và một người yêu dân chủ rất mâu thuẫn, một người chồng, một người cha, và có lẽ, trên hết, như một người Việt Nam yêu nước, mà có thể, hay không có thể, đã đánh cược canh bạc lớn nhất đời mình nhầm con ngựa” .
(Trích bài ai điếu của ông Frank McCulloch)
Phạm Xuân Ẩn & ‘The Spy Who Loved Us’ (Kết)
Nguyên Hân
Trước khi nói tiếp về ông Phạm Xuân Ẩn và cuốn “The Spy Who Loved Us” của tác giả Thomas Bass, xin trình bày thêm về 16 huy chương ông Ẩn được nhà nước cộng sản Việt Nam ban tặng; trong số này, có bốn cái đặc biệt tuyên dương sự đóng góp của ông cho bốn chiến dịch quan trọng. Một huân chương dành cho trận Ấp Bắc, một cho cuộc tấn công Sài Gòn vào dịp tết Mậu Thân năm 1968, và hai huân chương hạng nhất, một cái cho năm 1970, khi ông Ẩn đã báo trước cho bộ tư lệnh quân đội cộng sản để tránh được cuộc tấn công của quân đội Hoa Kỳ và miền Nam qua Cam Bốt. Huân chương hạng nhất thứ nhì dành cho vai trò then chốt ông Ẩn đảm nhiệm trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, khi quân đội miền Nam bị tiêu hao lớn trong một nỗ lực đánh qua Lào và cắt đường mòn Hồ Chí Minh năm 1971 bị thất bại.
Trận Ấp Bắc xảy ra vào tháng Một năm 1963, khoảng gần tám mươi cây số phía đông nam Sài Gòn. Trận chiến này có giá trị đối với Việt cộng ở chỗ, đây là lần đầu tiên họ tấn công quân đội miền Nam một cách chính quy, và thành công lớn, khác với lối đánh du kích trước đó, giữa ba trăm rưỡi Việt cộng và sư đoàn 7 của Việt Nam Cộng hòa. Chỉ trong những phút đầu tiên mở màn trận đánh, mười bốn trong mười lăm chiếc trực thăng bị đánh trúng mục tiêu, bốn chiếc trực thăng bị bắn rơi và chiếc thứ năm bị rớt trong lúc di tản thương binh. Phía Việt cộng có ba mươi chín người bị thương, mười tám người thiệt mạng, quân đội Việt Nam Cộng hòa có tám mươi người thiệt mạng và một trăm người khác bị thương, chưa kể thương vong từ phía Hoa Kỳ. [trang 136] Theo nhà báo người Tân Tây Lan, trưởng văn phòng Reuters ở Sài Gòn trong thời gian đó ông Nick Turner nghi ngờ rằng “Ông Ẩn có thể đã cung cấp tin tức về chiến thuật, nguyên tắc giao chiến, hậu cần và tình trạng chuẩn bị của quân đội miền Nam và cả Hoa Kỳ trong khu vực đó – cũng như những lời cố vấn quý giá của ông – cho quân đội cộng sản để thành công trong trận Ấp Bắc này.” [trang 138]
Cuộc hành quân Lam Sơn 719, xảy ra năm 1971 khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tấn công qua Lào nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, ông Ẩn đã cung cấp tin tức kịp thời để quân đội cộng sản bắc Việt chuẩn bị và phản công thành công, đưa đến tám ngàn thương vong cho phía VNCH, ngoài ra một trăm chiếc trực thăng và một trăm năm mươi chiếc xe tăng của quân đội miền Nam bị bỏ lại ở rừng già của Lào. [trang 217] Mặc dù hỏa lực của quân đội miền Nam mạnh mẽ, nhưng kế hoạch hành quân cũng như địa điểm ngày giờ đổ bộ rất có thể bị tiết lộ, nên có thể nói quân đội miền Nam bị “phục kích” trong trận này. Ông Ẩn là người cung cấp tin tức tình báo chiến thuật cho quân đội cộng sản kịp thời.
Cuộc tấn công miền Nam của quân đội cộng sản năm 1968, như đã trình bày, là một sự thất bại trầm trọng cho cộng sản về phương diện quân sự, nhưng lại là một thành công lớn trên mặt trận chính trị và ngoại giao, làm phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ lên cao, tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson thất cử và tướng William Westmoreland bị thuyên chuyển. Chính ông Ẩn là người giải thích điều này cho những người lãnh đạo cộng sản. [trang 204]
Như là người cuối cùng của văn phòng báo Time ở Sai Gòn sau 1975, ông Ẩn, theo định nghĩa, trở thành trưởng văn phòng này cho đến ngày 3 tháng Năm năm 1976. Nhưng ông viết rất ít trong thời gian một năm sau đó. “Sau 75, Sài Gòn trở thành Hồ Chí Minhgrad,” ông nói. Sự kiểm soát ngặt nghèo của chế độ cộng sản làm ông không muốn viết, vì ông “không biết làm thế nào để tránh sự kiểm duyệt”. Ông nói: “Tất cả những gì họ muốn là tuyên truyền cho chế độ mới, nên tôi chơi đá gà, đá cá cả ngày để tiêu khiển”.
Tháng Mười Hai năm 1976, nhà nước cộng sản Việt Nam chính thức công bố những hoạt động của ông Ẩn, và đưa ông ra ánh sáng. Ông đi Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ Tư như là một đại biểu của Quân đội Nhân dân cuối năm đó, và lần đầu tiên ông mặc quân phục. Ông nói nhiều Việt cộng từ miền Nam ra lấy làm ngạc nhiên khi thấy tôi. “Họ nghĩ CIA đã bỏ tôi lại”.
Trong lúc hằng trăm ngàn người của quân đội và chính quyền miền Nam bị đi tù, lao động khổ sai, thì ông Ẩn được gởi đi học mà ông đùa là “đi cải tạo”. Tháng Tám năm 1978, ông Ẩn đi học mười tháng về tư tưởng Marxist-Maoist dành cho đảng viên cấp cao ở Học viện Chính trị Hồ Chí Minh ở Hà Nội. “Tôi sống trong lòng địch quá lâu, nên họ gởi tôi vào đây để tái sinh (phế liệu cũ) ”.
Theo lời ông kể lại, ông là một học sinh tồi, điểm ra trường thấp gần cuối lớp. “Họ không thích chuyện tiếu lâm của tôi”, ông nói: “người Bắc khắc khổ cố dạy tôi thứ tiếng Việt đầy rẫy danh từ chính trị vay mượn từ Tàu”. Ông khốn khổ với những cơn mưa mùa đông lạnh tới xương của Hà Nội, ngủ trên giường gỗ với nệm bông. “Tôi mặc áo bông Trung Quốc làm tôi trông như cái xác ướp. Tôi yêu cầu cho tôi một cái áo khoác của Nga nhưng vẫn lạnh, nên tôi trở lại xin cấp cho một cái áo khoát một trăm mười một độ C”. “Là cái gì vậy?” ông viện trưởng hỏi. “Ba cô con gái, một cô ngủ bên phải tôi, một cô ngủ bên trái và một cô nằm trên tôi”.
“Họ không thích tôi chút nào,” ông Ẩn nói về những người cải tạo chính trị cho ông. “Nhưng tôi cũng chưa làm gì sai lầm lớn quá để bị bắn.” [trang 224]
Năm 1997, Hội Á châu ở Nữu Ước, Hoa Kỳ có tỗ chức một hội nghị và mời ông Phạm Xuân Ẩn tham dự như là khách đặc biệt. Nhưng nhà nước Việt Nam từ chối lời yêu cầu của ông, không cho ông đi. Tháng Ba năm 2002, lúc đang 74 tuổi và bị bệnh khí thủng, ông được phép về hưu. Ông “về hưu” lần nữa năm 2005, nhưng thực ra, ông vẫn làm việc cho đến ngày qua đời. “Họ muốn kiểm soát tôi”, ông Ẩn nói. “Đó là lý do họ giữ tôi lại trong quân đội quá lâu. Tôi ăn nói văng mạng. Họ muốn tôi ngậm miệng lại”.
Theo tác giả Bass, “chúng ta có thể tin chắc tối thiểu ba mươi năm sau ngày chiến tranh chấm dứt, ông Ẩn vẫn là một tình báo hoạt động năng nỗ trong ngành tình báo Việt Nam”. [trang 230]
Cũng trong năm ông Ẩn chính thức về hưu năm 2002, đảng Cộng sản Việt Nam xét đến chuyện cho phép xuất bản cuốn tiểu sử và đời hoạt động của ông, mang tên “Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời” do tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải viết. Cùng lúc, báo Thanh Niên cho đi một bài tương tự về ông dài 53 phần. Cuốn tiểu sử thứ ba “Người im lặng” do tác giả Chu Lai của Tổng cục Tình báo II (TC2) xuất bản. Ở nước ngoài, có hai cuốn nói về ông là “Un Vietnamien Bien Tranquille” của tác giả Jean-Claude Pomonti (phóng viên báo Le Monde), và Perfect Spy của giáo sư Larry Berman. [trang 231]
Một điểm lý thú khác mà tác giả Bass đề cập tới, là nhà của ông Ẩn có rất nhiều sách, đa số là tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, và rất ít sách tiếng Việt. “Người ở đây không được viết một cách tự do”, ông giải thích: “Đó là một lý do tôi sẽ không viết về đời mình. Tôi sẽ gặp rắc rối nếu tôi nói về cuộc đời tôi và những gì tôi biết” [trang 239]. Trong một lần khác, ông Ẩn nói: “Lý do mà chúng tôi không có lịch sử Việt Nam được viết bởi sử gia Việt Nam, là vì người ta không được phép viết về sự thật. Đó là lý do tất sả sách trên kệ của tôi được viết bởi người ngoại quốc”. [trang 252]
Có lần, trong cuộc nói chuyện giữa ông Ẩn và tác giả Thomas Bass, trong lúc ông Ẩn kéo hộc tủ ra tìm mấy tấm hình cũ cho ông Bass xem, ông Bass thấy cái huân chương gắn liền với cái tua đỏ. “Cái gì vậy?” ông Bass hỏi. “Họ cho tôi những cái này”, ông nói: “Tôi cũng không biết nó là cái gì, có ý nghĩa gì. Tôi làm việc trong bóng tối. Tôi chết trong bóng tối”. Vừa nói ông Ẩn vừa đóng hộc tủ lại, khi bên ngoài cơn mưa buổi chiều nặng hạt vừa đi qua thành phố Sài Gòn.
Lần cuối cùng tác giả Thomas Bass gặp ông Phạm Xuân Ẩn ở Sài Gòn là tháng Một năm 2006, ông Ẩn tâm sự: “Tôi muốn hoả táng. Tôi thích rải cốt tôi xuống sông Đồng Nai, gần nơi tôi sinh ra. Nhưng tùy họ quyết định”. Họ đây là đảng Cộng sản Việt Nam. “Tôi không muốn ai thăm viếng mộ tôi. Người ta nên dành thì giờ và năng lực cho những điều hữu ích hơn. Tôi giống như ông Hồ Chí Minh; ông ta cũng không muốn có lăng tẩm gì”.
Khi được hỏi liệu ông ta vẫn muốn ném cả đời mình vào cuộc chiến này như một nhà cách mạng. Ông trả lời: “Tôi không bao giờ là nhà cách mạng. Tôi là một kẻ lãng mạn, yêu thương thiết tha quê hương tôi và mong muốn bảo vệ đất nước mình cho đến chết”. Ông Ẩn viết vào sổ tay của tác giả Bass hai chữ “lãng mạn” và “cách mạng”, một cách chơi chữ của ông Phạm Xuân Ẩn.
Tác giả Bass có hỏi ông Ẩn một câu hỏi nhạy cảm, về chuyện tổng cục T4-TC2, là hai bộ phận khác nhau và kình nhau của nhà nước Việt Nam, giữa hai nhóm thân Trung Quốc chống nhóm ông Võ Nguyên Giáp và những người đồng chí cũ của ông. Khi được hỏi liệu ông ta vẫn muốn ném cả đời mình vào cuộc chiến này như một nhà cách mạng. Ông trả lời: “Tôi không bao giờ là nhà cách mạng. Tôi là một kẻ lãng mạn, yêu thương thiết tha quê hương tôi và mong muốn bảo vệ đất nước mình cho đến chết.” Ông Ẩn viết vào sổ tay của tác giả Bass hai chữ “lãng mạn” và “cách mạng”, một cách chơi chữ của ông Phạm Xuân Ẩn.
Ông nói thêm: “Tôi thích chính trị. Tôi không thích chính trị gia. Nếu anh muốn giết con chó, anh nói vì con chó bị dại. Đó là điều họ đang cố làm cho tướng Giáp. Tiếng Anh gọi cái này là gì? “Giết thanh danh”. Khó mà biết rõ nếu người Tàu có đút lót (cho Việt Nam). Chuyện này liên quan đến quá nhiều gian trá, thủ đoạn. Cái mà chúng tôi biết là Việt Nam đã chôn vùi câu chuyện chiến tranh đánh Trung Quốc năm 1979. Chúng tôi đã xoá sạch cái ký ức của chúng tôi”. [trang 252]
Cũng ngay chính trong lần gặp gỡ cuối cùng giữa hai ông trong tháng Một năm 2006 đó, ông Ẩn trở lại với cái chết của ông trước khi tác giả Bass giã từ, rằng ông muốn hỏa táng và rải cốt của ông ở sông Đồng Nai, gần Biên Hòa nơi ông sinh ra.
Chín tháng sau, tháng Chín năm 2006, ông Phạm Xuân Ẩn qua đời. Ông “bị” chôn cất ở nghĩa trang Thủ Đức, dành cho Anh hùng Quân đội với đầy đủ nghi lễ danh dự của quân đội. Tham dự tang lễ có ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng nhà nước CHXHCN Việt Nam, và tướng Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu tổng cục 2 đọc điếu văn.
Nghĩa trang này nằm dọc quốc lộ Biên Hoà, với khoảng năm trăm ngôi mồ, được xây dựng và bảo quản như một công viên. Bên kia xa lộ, là nghĩa trang dành cho những người lính miền Nam, đã một thời chiến đấu khác phe với ông Ẩn trong suốt cuộc chiến, mộ chí của họ đầy cỏ dại, và mộ bia nứt nẻ, đổ xiên xẹo trên mặt đất. [trang 261]
Trong bài ai điếu của ông Frank McCulloch, người sếp đầu tiên của ông Ẩn khi ông làm việc cho báo Time ở Sài Gòn năm 1965, ông McCulloch viết: “Trong thời gian ông làm việc cho tôi ở văn phòng Time Sài Gòn, chưa một lần ông Ẩn đưa tin với quan điểm riêng tư hay xào nấu tin tức để có lợi cho Cộng sản. Một cách nghịch lý, ông thực tình yêu mến nước Mỹ và nền dân chủ của Mỹ, và ông rất kính nể và trân trọng ngành báo chí tốt đẹp ở Hoa Kỳ”. Ông McCulloch chấm dứt bài ai điếu với lời tình tự mang tính riêng tư: “Tôi vẫn kính trọng anh, Ẩn, như là một người bạn, một nhà báo, một phức thể và một người yêu dân chủ rất mâu thuẫn, một người chồng, một người cha, và có lẽ, trên hết, như một người Việt Nam yêu nước, mà có thể, hay không có thể, đã đánh cược canh bạc lớn nhất đời mình nhầm con ngựa (ở trường đua – NH).”
Như đã trình bày, bài viết này hoàn toàn dựa vào cuốn “The Spy Who Loved Us” của nhà báo và giáo sư khoa báo chí Thomas Bass, nhằm trích ra một vài đoạn “thú vị” để trình bày với những ai chưa có dịp đọc cuốn sách này.
(…)
Huế, tháng Chín, 2010
NH
(1) The Spy Who Loved Us (ISBN 978-1-58648-409-5), của tác giả Thomas Bass được nhà xuất bản PublicAffairs, một thành viên của Perseus Books Group phát hành năm 2009. Tác giả hoàn toàn giữ bản quyền.
(2) Nguyên Hân: Trong bài “Vietnam – Still at War Thirty-Five Years Later”, đi trên Huffington Post ngày 3 tháng Năm năm 2010, ông Thomas Bass viết cuộc Chiến tranh Việt Nam vẫn còn đang tiếp diễn, “trận chiến không xảy ra ở chiến trường mà nằm ngay trong ký ức chung của chúng ta.” Ông Bass nêu lên hai điều ông không đồng ý trong bài viết này. Trước hết, ngay tại thời điểm này ở Hoa Kỳ, vẫn có một số người có khuynh hướng đổ thừa sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam là do đám nhà báo Mỹ khuynh tả, phản bội lại chính chính phủ Hoa Kỳ của họ. Nhưng theo ông Bass, không có một bằng chứng cụ thể để chứng minh điều này. Điều thứ hai ông Bass không đồng ý, xảy ra ở Việt Nam, là khi Việt Nam dịch và tiện thể, “xào nấu” cuốn “The Spy Who Loved Us” của ông. Ông nói rằng ông biết thế nào nhà xuất bản ở Việt Nam cũng sẽ cắt bỏ một số điều trong cuốn sách của ông, nhưng “ông không chuẩn bị tinh thần cho chuyện phá cho nát bấy mà hiện bản dịch tiếng Việt đang gánh chịu.” Cuốn sách của ông, qua bản dịch Việt Nam, đã trở thành một công cụ tuyên truyền cho chế độ cộng sản, một bài trường ca ca ngợi tổ quốc Việt Nam… Cả hai, những người đổ thừa sự thất bại của Hoa Kỳ trong Cuộc chiến Việt Nam lên cho giới nhà báo “phản bội”, cũng như khi nhà xuất bản ở Việt Nam, những người “cắt, xén, đục, bỏ” cuốn sách của ông khi dịch sang tiếng Việt, là những người không dám nhìn vào sự thật, 35 năm sau cuộc chiến chấm dứt.
Ông kết luận: “Cuộc chiến Việt Nam đang tiếp diễn là một cuộc chiến của ký ức, lịch sử, và sự thật, và hàng rào vẫn còn quá cao (để vượt qua được.)”
(3) Những đoạn trích trong bài này được lấy từ cuốn “The Spy Who Loved Us” với số trang đi kèm, và sự trích dẫn này được sự đồng ý của tác giả Thomas Bass.
______________________________
Filed under: Uncategorized | Tagged: Chủ nghĩa CS > Phạm Xuân Ẩn > Tình báo > 'The Spy Who Loved Us' > Thomas Bass | Leave a comment »