884 – Ngày anh về bên bố mẹ tổ tiên, em không về được. Em gửi về quê một tấm lòng!

848 – Khi ngỗng trời bay về…

769 – Nhớ tết ở quê năm ngoái…

Chúc mừng năm mới!Sang năm tới Hoàng Sa!

Chúc mừng năm mới!
Sang năm tới Hoàng Sa!

Mẹ Việt Nam ơi, tết này con không về được, xin gửi về quê một tấm lòng. (*)

Tết tha hương nhớ quê da diết, đành giải sầu bằng “hoa đào năm ngoái” (hay không khí của mùa xuân năm ngoái) vậy!

Nếu ai có trách, đã sang năm mới sao lại cứ nhớ cảnh cũ, người cũ? Nhưng cả nhà đài (của nhà nác) và cả người thân, ai cũng bảo tết năm nay không khí mua sắm đón xuân kém hơn năm trước. Năm trước lại kém hơn năm trước nữa, trước nữa…

Như vậy, phá lệ kiêng cữ, biết đâu ăn cơm mới (hẩm/ yếu kém) nói chuyện cũ (sáng/ khá) lại chả sướng hơn à?

Chợ làng 28 tết

Chợ làng 28 tết

Chuối xanh là thứ qủa chủ lực trên mâm ngũ qủa ở mọi nhà.

Chuối xanh là thứ qủa chủ lực trên mâm ngũ qủa ở mọi nhà.

Giò chả là món không thể thiếu trong mâm cỗ đón xuân.
Giò chả là món không thể thiếu trong mâm cỗ đón xuân.
Dù ăn tết giản tiện đến đâu, hàng hoa tươi nhà nào mà không phải ghé qua?

Dù ăn tết giản tiện đến đâu, hàng hoa tươi nhà nào mà không phải ghé qua?

Lễ tạ, tảo mộ và sửa sang "nhà mới" cho tổ tiên là thủ tục quan trọng hàng đầu...

Lễ tạ, tảo mộ và sửa sang “nhà mới” cho tổ tiên là thủ tục quan trọng hàng đầu…
Hương khói ở khu mộ mới qui tập từ cánh đồng làng về nghiã trang hôm 25 tết.

Hương khói ở khu mộ mới qui tập từ cánh đồng làng về nghiã trang hôm 25 tết.

Lau chùi và trang hoàng ban thờ gia tiên là thủ tục mọi nhà đều hoàn tất vào dịp trước tết.

Lau chùi và trang hoàng ban thờ gia tiên là thủ tục mọi nhà đều hoàn tất vào dịp trước tết.

Thú chơi cây cảnh hiện đang rất thịnh hành ở làng quê...

Thú chơi cây cảnh hiện đang rất thịnh hành ở làng quê…
... và thú chơi các loại chim cảnh cũng đang là sở thích của nhiều người!

… và thú chơi các loại chim cảnh cũng đang là sở thích của nhiều người!

Những buồng cau tươi đang nóng lòng chờ tết đến...

Những buồng cau tươi đang nóng lòng chờ tết đến…

Những gốc đào phai cổ thụ cũng được nhiều người sành chơi cây cảnh săn lùng...

Những gốc đào phai cổ thụ cũng được nhiều người sành chơi cây cảnh săn lùng…

... và thú chơi quất, cam trong các chậu lớn cũng đã hiện hữu ở nhiều gia đình!

… và thú chơi quất, cam trong các chậu lớn cũng đã hiện hữu ở nhiều gia đình!

Địa lan cũng như đang bước từ các bức tứ qúi ra đón xuân cùng đất trời, con người...

Địa lan cũng như đang bước từ các bức tứ qúi ra đón xuân cùng đất trời, con người…

Trái gấc chín đỏ cũng chọn thời điểm đúng vào dịp tết đến xuân về...

Trái gấc chín đỏ cũng chọn thời điểm đúng vào dịp tết đến xuân về…

P1070745

Nồi bánh chưng luôn là tâm điểm chú ý của mọi người trong gia đình.

Nồi bánh chưng luôn là tâm điểm chú ý của mọi người trong gia đình.

Ban tế lễ đang khẩn trương tập dượt những ngày cận tết.

Ban tế lễ đang khẩn trương tập dượt những ngày cận tết.

Sân Đình Đụn thờ An Sinh Vương -Trần Lão (Liễu) hôm 28 tết.

Sân Đình Đụn thờ An Sinh Vương – Trần Lão (Liễu) hôm 28 tết.

Đọc văn tế...

Đọc văn tế…

Đình Đụn đã có cách đây 800 năm vừa được trùng tu lại năm 2011.

Đình Đụn đã có cách đây 800 năm vừa được trùng tu lại năm 2011.

Sân Đình Đụn những ngày giáp tết thật náo nhiệt.

Sân Đình Đụn những ngày giáp tết thật náo nhiệt.

Phong tục xưa cấm nữ giới lên đình. Nhưng nay đã khác, chị em được tha hồ lễ bái...

Phong tục xưa cấm nữ giới lên đình. Nhưng nay đã khác, chị em được tha hồ lễ bái…

Chị em cũng được ngồi "thụ lộc Thánh" bằng chiếu với các đấng mày râu...

Chị em cũng được ngồi “thụ lộc Thánh” bằng chiếu với các đấng mày râu…

... và còn cụng ly như ai.
… và còn cụng ly như ai.
Chiếu "thụ lộc" của các đấng mày râu...

Chiếu “thụ lộc” của các đấng mày râu…

Lễ vật dâng Đức Thánh Trần sáng mùng một tết!

Lễ vật dâng Đức Thánh Trần sáng mùng một tết!
Hàng Giáp (lên trùm) dâng lễ cúng Đức Thánh vào sáng mùng một tết.

Hàng Giáp (lên trùm) dâng lễ cúng Đức Thánh vào sáng mùng một tết.

Nhóm bạn đồng niên "thất thập" lên lễ Thánh sáng mùng một tết.

Nhóm bạn đồng niên “thất thập” lên lễ Thánh sáng mùng một tết.
Chụp ảnh lưu niệm sáng mùng một tết trước khi khởi hành đi lễ tổ tiên họ hàng.

Chụp ảnh lưu niệm sáng mùng một tết trước khi khởi hành đi lễ tổ tiên họ hàng.

Ông "Thần Khẩu" (chó đá) ở đầu làng cũng được hương khói chu toàn của dân làng.

Ông “Thần Khẩu” (chó đá) ở đầu làng cũng được hương khói chu toàn của dân làng.

Gian phòng khách nhỏ bé mà ấm cúng trong những ngày tết đến xuân về...

Gian phòng khách nhỏ bé mà ấm cúng trong những ngày tết đến xuân về…

Ban thờ Đình Đụn thờ An Sinh Vương - Trần Lão ở làng Lai Xá ngoại thành Hà Nội.

Ban thờ Đình Đụn thờ An Sinh Vương – Trần Lão ở làng Lai Xá ngoại thành Hà Nội.

Đêm liên hoan văn nghệ "cây nhà lá vườn" ở sân Đình Đụn - mùng 4 tết.

Đêm liên hoan văn nghệ “cây nhà lá vườn” ở sân Đình Đụn – mùng 4 tết.

Con em của những người nông dân "chân lấm tay bùn" hôm nay đã khác nhiều rồi...

Con em của những người nông dân “chân lấm tay bùn”… hôm nay đã khác nhiều rồi!

Khán giả nhiệt thành nhất của đêm văn nghệ ở sân đình làng - mùng 4 tết.

Khán giả nhiệt thành nhất của đêm văn nghệ ở sân đình làng – mùng 4 tết.

Tốp ca U.60 hát quan họ mừng xuân...

Tốp ca U.60 hát quan họ mừng xuân…

Phường bát âm đang tấu nhạc ngũ cung trên đường làng.

Phường bát âm đang tấu nhạc ngũ cung trên đường làng.

Mùa xuân ở làng cũng là mùa cưới hỏi của đôi lứa nên duyên vợ chồng...

Mùa xuân ở làng cũng là mùa cưới hỏi của đôi lứa nên duyên vợ chồng…

Nhà cửa trong làng quê ven đô hôm nay trên 50% đã được bê tông hóa.

Nhà cửa trong làng quê ven đô hôm nay trên 50% đã được bê tông hóa.

Một đám đi ăn hỏi trên đường làng...

Một đám đi ăn hỏi trên đường làng…

Bên cạnh những căn nhà tầng vẫn còn dấu ấn của một thời chưa xa...

Bên cạnh những căn nhà tầng vẫn còn dấu ấn của một thời chưa xa…

Căn nhà cấp 4 cổ như thế này chỉ còn lại vô cùng hy hữu...

Căn nhà cấp 4 cổ như thế này chỉ còn lại vô cùng hy hữu…

Những máy ảnh cũ kỹ ở tủ kính này là chứng tích thời vàng son của một làng nghề nổi tiếng xứ mình.

Những máy ảnh cũ kỹ ở tủ kính là chứng tích thời vàng son một làng nghề nổi tiếng xứ mình.

Chàng thợ cày yêu đời này giờ đây đã an phận "chồng cày vợ cấy" ven đường làng...
Chàng thợ cày yêu đời này giờ đây đã an phận “chồng cày vợ cấy” ven đường làng…
Người nông dân hết ruộng vẫn cười tươi với "nghề mới" chuyển đổi từ làng lên phố...
Người nông dân hết ruộng vẫn cười tươi với “nghề mới” chuyển đổi từ làng lên phố…
Mỗi cột, 8-9 cái loa mẫn cán ngày đêm ra rả "miễn phí" rót mật vào tai từng người dân làng.

Mỗi cột, 8-9 cái loa mẫn cán ngày đêm ra rả “miễn phí” rót mật vào tai từng người dân làng.

Sân Chùa Sai nhộn nhịp trong suốt hôm rằm tháng Giêng.

Sân Chùa Sai nhộn nhịp trong suốt hôm rằm tháng Giêng.

Bàn công đức và phát lộc đầu xuân ở hiên chùa Sai.

Bàn công đức và phát lộc đầu xuân ở hiên chùa Sai.

Gocomay bên khóm trà my trước tam quan Chùa Sai hôm rằm tháng Giêng.
Gocomay bên khóm trà my trước tam quan Chùa Sai hôm rằm tháng Giêng.
... đoá trà my mùa xuân ở sân chùa.

… đoá trà my mùa xuân ở sân chùa.

Mùa xuân năm ngoái tuy đã kém xa không khí mùa xuân thời May còn sống ở làng. Vậy mà vẫn hơn mùa xuân và tết năm nay. Quê hương tôi đang chuyển đổi từ làng lên phố. Người nông dân không còn ruộng phải bám các vỉa hè đường làng bươn chải kiếm sống. Trừ một số tinh anh, đa số vẫn lạc quan yêu đời và tin tưởng ở tương lai “tươi sáng” của mình. Nhờ những chiếc loa của “Bên thắng cuộc” ra rả tối ngày sáng đêm… len lỏi tới mọi người, mọi nhà.

Phải công nhận ngày hôm nay, nhờ hội nhập miếng ăn miếng uống nói riêng. Hay đời sống vật chất và tinh thần nói chung của người dân quê là có khấm khá hơn. Nhưng sao vẫn như có những bất ổn đằng sau cái vỏ hào nhoáng bên ngoài kia?

Nhiều người tưởng đổi đời. Nhưng chưa kịp tận hưởng bỗng đâu tắt phụt, đứt gánh giữa đường. Bởi biết bao hiểm họa đang rình rập sự sống của họ từng ngày từng giờ. Khiến đời người ta cứ ngắn dần đi. Khi những người nông dân từ ngàn đời nay vốn gắn bó với nông thôn, nông nghiệp, ruộng đồng. Nay bỗng dưng bị tước đoạt gần như hết thảy tất cả những gì thiêng liêng mà chính bản thân, cha ông, tổ tiên của họ đã đổ biết bao mồ hôi và cả máu mới có được.

Người nông dân phải hy sinh ruộng nương của mình cho cái gọi là “phát triển” mà sự phát triển đó lại rất tù mù, vô định. Thì họ và con cháu họ sẽ hội nhập ra sao và bằng cách nào với hoàn cảnh mới?

Khi đã trở thành vô công dồi nghề trên chính quê hương yêu dấu của mình, người dân quê không còn tự chủ được với chính cuộc sống của họ nữa. Hoàn toàn phó thác sinh mệnh của mình cho số phận may ít rủi nhiều. Đó có lẽ chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn tới ”phú qúi thụt lùi” mà ai cũng có thể cảm nhận được thông qua không khí vui xuân đón tết năm nay.

Xuân về, thấy càng nhớ cái tết thuở hàn vi qúa!

Không biết bao giờ cho tới ngày xưa?

Gocomay

* Theo ý của bài Xuân Tha Hương – Nguyễn Bính 

____

Xem lại các bài liên quan của Gocomay:

_____________________

753 – Những người nông dân mất đất phải làm ruộng chui

Cụ bà Lê Hiền Đức xuống đồng cùng bà con Văn Giang (hồi trung tuần tháng 6/2012)

Nhìn hình ảnh những nông dân Văn Giang cấy lúa trộm trên thửa ruộng vốn là của cha ông họ. Khiến tôi rơi nước mắt. Mừng vì người dân Văn Giang đã biết đoàn kết đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Cho dù, dưới con mắt của chính quyền, vạt đất lúa nhỏ nhoi khốn khổ đó, người dân ở 3 xã: Xuân Quan; Phụng Công; Cửu Cao đã tạm giành lại được trong số 500 ha đất thuộc “Sở hữu toàn dân – do nhà nước là đại diện chủ sở hữu” đã bị qui hoạch, thu hồi và giao cho người khác (chủ đầu tư) để làm khu đô thị sinh thái.

Sau 3 tháng trời luôn phải lo lắng, cắt cử người canh lúa chống lại việc phá hoại thành quả lao động của kẻ ác, ngày 21-10-2012, hơn 300 bà con 3 xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao vui mừng đi gặt lúa chín – Nguồn: xuandienhannom

Những khóm lúa xơ xác này, như bà con cho biết, được gieo trên phần đất khoảng 1 mẫu, bà con cả 3 xã đã cấy (trộm) được sau vụ bị cưỡng chế ngày 24-4-2012. Sản lượng đạt được sau gặt trên 1 tấn thóc. Dự kiến sẽ chia cho các gia đình có người già bị mất đất và các hộ gặp khó khăn sau khi bị cướp đất và mất mát nhiều tài sản cây trồng trên đất bị cướp.

Không biết những hạt lúa mới đầy máu và nước mắt này có làm lay động được ai ở trên thượng tầng (đỉnh cao), khi các vị ấy vẫn khăng khăng “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu” (*) còn từng người dân (cụ thể) chỉ là đám người ăn kẻ ở trông nom (quản lý) đất giúp cho nhà nước (đại diện chủ sở hữu) mà thôi.

Không còn ruộng, người nông dân chẳng còn biết nghề nghiệp của mình là gì, mỗi khi con cái của họ phải khai trong lý lịch (bắt buộc) trước khi làm hồ sơ thi vào các trường đại học, cao đẳng hay trung học chuyên nghiệp.

Ngoài nấu ruợu, chú em họ tôi có nghề “vỗ gà chọi” quanh năm…

Như chú em họ của tôi ở quê, hết ruộng đành ở nhà nấu rượu cuốc lủi giao mối cho các hàng quán quanh làng. Ngoài nấu rượu, chú ấy còn có thú chơi gà chọi. Nên khi con cái hỏi, mục khai nghề nghiệp của bố, chả nhẽ ghi: nấu rượu (lậu)? Chú đành bảo con cứ ghi: nghệ nhân chọi gà… làm cô giáo chủ nhiệm lớp của con chú cũng cười ra nước mắt…

Cô em con chú dì ruột tôi, năm nay đã ngoại lục tuần. Hết đất, cô chả có nghề gì chuyển đổi, ngoài một tháng hai buổi ra cạnh đình bán cau trầu cho bà con sắp lễ vào các ngày rằm và mùng một. Nhưng cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng rồi. Nay phải thúc thủ “nhàn cư” như vậy cô không tài nào quen được. Tranh thủ thửa đất ngót sào của mình đang (qui hoạch) “treo”, cô đi xin những cây quất người ta vứt bỏ sau khi chơi tết, đem ra râm xuống, chăm chút qua loa cho cây sống, lấy qủa đem bán lẻ cho các quán giải khát. Dưới gốc quất cô ta còn cấy ngải cứu hay gieo cải bỏ mối cho các sạp bán rau tươi quanh làng… Nhưng mấy ai đã gặp may mắn được như thế cơ chứ?

Cô em họ bán cau và quất trên đường quanh đình làng

Chứng kiến tận mắt cảnh các em tôi chẳng thể “nhất nghệ tinh” mà sống được trong cơn cuồng phong “đô thị hóa” hỗn loạn ngày hôm nay càng thấy thương cho quê hương xứ sở. Khi phố không ra phố mà làng cũng chẳng còn. Mới thấy thấm thía câu mà cụ Lê Qúi Đôn đã chép trong Châm cảnh: “kẻ độc phu tàn bạo làm nhiễu loạn cả nước“!

Những người kiên định ở mọi thời đều đặt mục tiêu “ổn định chính trị” lên hàng đầu. Bởi thế, có ai tin một chính thể có tới 80% trong tổng số đơn khiếu kiện cuả dân ở cửa quan là thuộc về lĩnh vực đất đai lại là một chính thể luôn “của dân, do dân và vì dân”?

Người Việt Nam quan tâm tới thời cuộc, ai cũng hiểu sự giàu lên như “Phù đổng Thiên vương” của các quan chức lớn nhỏ từ trên xuống dưới đều liên quan tới yếu tố đất đai. Như đánh giá của giới quan sát có uy tín quốc tế. Khi cho rằng “Tham nhũng trong quản lý đất đai đang ở nhóm đứng đầu trong “bảng tham nhũng”.”

Nếu không đúng vậy, chẳng ai ngu gì mà xưng xưng thú nhận “một bộ phận không nhỏ” cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất… đang cấu kết nhau thành “nhóm lợi ích“… trở thành “bầy sâu ăn hết phần của dânnhư hai ông Trọng và Sang đã phát ngôn trước bàn dân thiên hạ. Mà kết cục chẳng diệt được con “sâu chúa” nào, chẳng thể kỷ luật được ai. Dù ở mức thấp nhất là cảnh cáo phê bình?

Lý do được viện dẫn không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”. Như vậy có ai tin được không? Khi các vị chóp bu không có ai phải chịu trách nhiệm về những sai lầm yếu kém trong quản lý điều hành để tham nhũng thất thoát khiến nền kinh tế đất nước suy sụp. Lại tiếp tục dụ người dân thấp cổ bé miệng cùng tham gia chống tham nhũng: “Nếu ai cũng sợ bị trù úm thì đất nước này sẽ thế nào?” (lời ông Chủ tịch Sang **)

Xin hỏi, nếu người dân “cùng tham gia” chống tham nhũng với đảng và nhà nước mà bị bọn quan tham có súng nhân danh đảng và nhà nước tới vu vạ cho cái mác: “thế lực thù địch”. Hoặc bị các “thế lực thù địch” xúi dục, lợi dụng thì liệu ông chủ tịch có bênh được người dân không? Hay lúc đó các vị lại xuê xoa với nhau “theo phương châm “trị bệnh cứu người”, giúp nhau cùng tiến bộ…”? (lời ông TBT Trọng ***)

Trên trang blog của một nhà báo tự do, người đã từng gắn bó mật thiết với chế độ, đã vô cùng bức xúc, cho rằng:

Tại sao cả “một bộ phận không nhỏ thoái hóa hư hỏng, đe dọa đến sự tồn vong của đảng và chế độ”, nhưng sau đợt kiểm điểm rồi vẫn không loại bỏ được ai khỏi đội ngũ? Đây là sự tế nhị, là nguyên tắc bảo vệ “tình đồng chí” trong đảng, hay là sự thỏa hiệp, là thái độ hèn hạ, bất lực? Thế thì làm sao còn dám kêu gọi người dân đừng sợ hãi, đừng sợ trù úm để cùng đảng chống tham nhũng?” (****)

Theo lời mời của bà con Văn Giang, cụ Lê Hiền Đức đã đến dự buổi thu hoạch cùng bà con ngày 21/10/2012 – Nguồn: xuandienhannom

Còn tôi, có lẽ chỉ có thể tin được “một bộ phận rất nhỏ” đảng viên chưa thoái hóa biến chất. Hiện đang bị các cơ quan chức năng của đảng không ưa, đưa vào tầm ngắm như trường hợp của cụ bà (đảng viên lão thành) Lê Hiền Đức. Dù tuổi cao sức yếu vẫn gần dân, biết đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của nhân dân. Đó chính là viên ngọc qúi hiếm còn sót lại trong cái tổ chức hữu danh vô thực đang sống thoi thóp trên mảnh đất tang thương này!

Gocomay

Xem thêm: 718 – Lại “thương nhớ đồng quê”  – https://gocomay.wordpress.com/2012/02/23/718-l%E1%BA%A1i-th%C6%B0%C6%A1ng-nh%E1%BB%9B-d%E1%BB%93ng-que/

(*)  http://baodatviet.vn/Home/chinhtrixahoi/Tong-Bi-thu-noi-ve-nguyen-nhan-bat-on-dat-dai/201210/239517.datviet

(**) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/fi-corrpt-who-dare-10182012074722.html

(***http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/92724/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-be-mac-hoi-nghi-tu-6.html

(****http://www.truongduynhat.vn/thua-chu-tich-dung-noi-nua-hay-hanh-dong/

____________________________

677 – Quê tôi xứ Đoài mây trắng lắm! (5)

P1060953.JPG

Hình ảnh chụp lưu niệm với thanh niên làng ở sân đình Đụn trước khi đi thoát ly… (GCM thứ 3 từ trái sang)

Gò cỏ may (5)

(Tiếp theo và hết)

Dắt xe vào sân, U tôi đang sàng gạo, thấy chuồng ngỗng trống không.

Tôi hỏi?

U tôi bảo:

“chúng nó ngủ luôn ngoài ao nhà Thọ Lông mấy hôm nay rồi. Nhà neo, không ai chăn, ngỗng gầy quá, rao bán chẳng ai mua. Ai mà nhai được cái thứ thịt ngỗng già dai ngoách ấy”.

U tôi lại bảo:

“tắm ù đi cho mát, rồi vào ăn cơm. Tối giã cho U cối gạo, mai đưa U ra thăm cậu Đắc, biếu cậu mợ các em ngoài ấy vài ca gạo nếp, cám ơn cậu mày, nhân thể cám ơn cái ông Kiềm hoạ sỹ (*) đã kèm cặp mày dạo ôn thi ấy luôn…. chứ không có cậu Đắc và cái ông thầy vẽ tốt bụng ấy thì có khướt mày mới thi đậu mà được gọi đi học như vậy”.

Tắm rửa cơm nước xong, hai U con cùng giã gạo. Khi tiếng chày đều nhịp, U tôi thủng thẳng kể vài nét về cuộc đời cậu Đắc, người em trai ruột yêu qúi của bà.

Cậu Đắc tôi sinh năm 1922 tuổi Nhâm Tuất. Là con thứ ba, con trai duy nhất. Còn U tôi là chị cả. Nhà năm chị em, rất nghèo. Dì Hai, em gái U tôi bị chết đói. Bà ngoại tôi thì mất sớm do bị chó dại cắn, lên cơn. Ông ngoại tôi, cảnh gà trống nuôi con, cả nhà chỉ có Cậu tôi được đi học. Hết tiểu học ở trường làng thì ông ngoại tôi gửi Cậu cho ông Đương trên Phủ Quốc (Quốc Oai – Sơn Tây). Ông Đương là em ruột ông ngoại tôi cũng là lứa học trò của cụ Khánh Ký, lúc đó đang là chủ hiệu ảnh nổi tiếng tại Quốc Oai. Tại đó cậu Đắc tôi được học tiếp lên trung học. Sau khi đỗ bằng Thành trung, thì cậu tôi thôi học chữ theo nghề ảnh luôn. Vừa học vừa làm. Năm 1943, có ông Độ (Trần Độ) là người của Việt Minh, cũng chạc tuổi Cậu tôi, tới Quốc Oai nơi cậu tôi đang làm việc bắt liên lạc, trở thành bạn thân. Sau đó giác ngộ cách mạng và kết nạp cậu tôi vào Hội văn hoá cứu quốc. Trong KCCP cậu Đắc tôi theo ông Độ lên Việt Bắc và là trưởng phòng Nhiếp ảnh Quân đội cùng với các ông Hồng Nghi, Vũ Năng An, Vũ Phạm Từ, Triệu Đại, Đinh Đăng Định… Năm 1953, cậu tôi là một trong những bậc tiền bối thành lập Nha thông tin Quốc doanh Chụp ảnh và Chiếu bóng Việt Nam do chính tay Hồ Chủ Tịch ký văn bản sắc lệnh thành lập. Năm 1954 ông phụ trách tổ quay phim và chụp ảnh chiến dịch Điện Biên Phủ gồm các ông: Ngọc Quỳnh, Nguyễn Đăng Bảy, Nguyễn Thụ, Trần Đức Hoá, Nguyễn Như Ái, Nguyễn Giá, Triệu Đại, Phạm Gia Lễ, Nguyễn Đình Ưu…. Năm 1958 là quay phim chính bộ phim truyện đầu tiên “Chung một dòng sông”. Sau đó còn quay thêm một phim nữa là “Vật kỷ niệm của người đã mất” thì chuyển sang làm quản lý, với chức vụ Phó giám đốc Xưởng phim truyện VN lúc vừa tròn ba mươi tám tuổi. Tiếp nối được truyền thống làng nghề, cậu tôi rất giỏi cả chụp ảnh lẫn quay phim. Giá mà cứ làm chuyên môn thì…

Tiếc rằng con đường sáng tác lại tắt qúa sớm để làm cái chức Phó giám đốc quyền rơm vạ đá ấy. U tôi cứ nhớ mãi cái năm CCRĐ khốc liệt dạo trước. U tôi bị qui sai, bị đấu tố, mất hết tài sản. Cậu Đắc thương U tôi lắm. Nhiều lần cứ muốn về gặp Đội để thanh minh, làm chứng cho U tôi là bị hàm oan, U tôi từng là cơ sở tiếp tế đắc lực cho cán bộ Việt Minh và du kích kháng chiến…

Nhưng Thầy tôi (lúc đó phải trốn ở Hà nội) phải can ngăn mãi nên cậu mới thôi. Cũng may là cậu không về, chứ về mà không “vững lập trường” hùa theo Đội đấu tố, mà bênh bà chị “địa chủ” thì có đi đời nhà ma ấy chứ ? …

Sáng hôm sau, tôi đèo U tôi qua Cầu Giấy, chợ Ngọc Hà, qua dốc Bách Thảo và lên 62 Hoàng Hoa Thám, nơi cậu Đắc tôi mới chuyển từ trong làng Đại Yên ra. Ông chẳng cần ý tứ, cứ bới lục lọi đãy qùa lủng củng bà chị đem từ quê ra … rồi lớn tiếng trách:

“Chị cứ vẽ chuyện, bày đặt qùa với cáp. Ra thăm em mang chút khoai lang, khoai sọ Đình Lỗ như vậy là chúng em thấy đỡ nhớ tới làng Lai rồi, lại còn cả gạo nếp, đỗ xanh, rồi lạc nhân nữa. Chị neo đơn lại đau yếu thế mà cứ làm như vậy khiến chúng em khó nghĩ qúa”.

U tôi kéo giật cậu tôi xuống bếp, ghé tai nói nhỏ điều gì đó. Lúc ấy cậu tôi mới không còn băn khoăn gì thêm nữa.

Cơm nước xong, U tôi đòi về bằng được, mặc dù cậu mợ tôi nài nỉ giữ thế nào.

U tôi bảo:

“lâu lắm mới ra thăm câu mợ và các cháu. Chị cũng muốn ở lại chơi vài bữa, nhưng cái Quyền nó quẳng cả hai đứa con gái về quê. Khổ thân nó, vừa phải đi làm nhà máy dệt ba ca, mà bốn năm đẻ ba đứa liền. Nó phải gửi hai cháu Hà và Hằng về cho chị trông đỡ, nên thực tình, không thể nán lại được. Mong cậu mợ và các cháu thông cảm cho “

Đưa tiễn U tôi lên tận đầu dốc, sát đường nhựa Hoàng Hoa thám, cậu tôi nét trầm buồn, chậm dãi nói: “chả dấu gì chị, như chị biết đấy, thằng Tích nhà em thì hy sinh đã lâu, có lẽ sắp tới mới có giấy báo tử, có chế độ. Còn cái Kim lấy chồng đã ra ở riêng mấy năm rồi, nó ở bên nhà máy bia kia. Thằng Thắng đi công nhân quốc phòng, cứ biền biệt chả khác gì đi bộ đội. Con cái Thuỷ, bỏ học vào Đoàn văn công Trường Sơn, nghề múa mà nó cứ thích. Ở nhà vắng vẻ, còn độc thằng Hiền đang học năm cuối cấp hai…  ra ngoài này, được cơ quan phân hai tầng cũng chả thiếu chỗ ngủ. Nhưng em tính cứ để cháu Cường ở nội trú thì tốt hơn. Cho cháu va chạm ở tập thể sẽ sớm biết tự lập. Sẽ học hỏi được nhiều!…”

Lúc về, tôi chọn lối qua chợ Bưởi rồi băng Nghiã Đô qua Mai Dịch…, cũng muốn giới thiệu sơ qua nơi tôi sẽ tới học tập bắt đầu từ ngày mai ở 33 Hoàng Hoa Thám. Đứng trên đầu dốc nhìn khu nhà nứa lá đơn sơ của Trường Điện ảnh. Thấy dốc đất đá lởm chởm như dốc đê sông Cái trên chợ Gối, U tôi không khỏi ngỡ ngàng bảo:

“U cứ tưởng cơ ngơi dạy quay phin (phim) cuả cái ông nhà nước thì to nhớn lắm. Hóa ra lại lụp sụp còn khướt mới bằng cái hiệu ảnh nhà Cụ Phúc Lai nơi thầy mày học chấm ảnh khi xưa!”….

Sáng hôm sau, thứ hai, tôi đặt chuông đồng hồ dậy từ bốn giờ sáng. Tính đi Hà Nội sớm cho mát. Buổi khai giảng hôm nay ai lại nỡ tới muộn bao giờ! Thế mà U tôi đã lục cục duới bếp từ lúc nào. “Thế U không ngủ à”? chẳng chả lời, U tôi dúi vào tay tôi một bọc lá chuối to tướng, cơm nếp đậu còn nóng dẫy tay. Lại cả lọ muối vừng thơm phức nữa.

U tôi dặn:

– chịu khó đèo ra ngoài đó cho mấy anh em nội trú cùng ăn cho vui.

– con xin!

Tôi vừa đón gói qùa vừa nói, rồi buộc đồ lề vào sau xe. Dắt xe ra cổng.

– U ở nhà, con đi đây

– Ừ con đi

U tôi còn dúi thêm cho tôi dăm đồng nữa, dặn: “… để thỉnh thoảng lên chợ Bưởi mà ăn sáng thêm, kẻo đói thì học không vào được đâu!”, lại còn nứu càng xe bà ôn tồn: “Này, hôm qua, lúc qua chỗ con học, U nói đùa vậy chứ chả có ý gì đâu. Thôi cố mà học. Cốt ở cái nghề …., mình có ăn đời ở kiếp ở đấy đâu mà sợ.” 

ap_20090718052220470.jpg

Hình ảnh kỷ niệm cuối cùng còn sót lại trên cánh đồng làng cho tới thời điểm đầu năm 2006

Tôi đạp xe về trường mà trong lòng dâng lên một cảm giác vô cùng khác lạ. Cũng trên con đường ấy, suốt nửa thế kỷ, Thầy tôi, vẫn đi về. Các anh các chị tôi, ra khỏi làng cũng là con đường đó. Thế mà, hôm nay, qua cổng làng đã lâu, quái lạ, đi mãi vẫn không ra tới được đường cái quan? Hóa ra tôi đi lạc!

Vòng vo mãi trên cánh đồng làng. Mười mấy năm lăn lộn, tưởng thuộc nó như lòng bàn tay mà tự dưng, lúc này tôi lại không nhớ đường?

Không khí mát mẻ, trong lành quá. Đêm qua mưa sấm chớp đùng đùng. Sáng nay lại tĩnh lặng thế. Rồi ào một cái, tựa có phép lạ, cả cánh đồng bỗng rôm rả, om sòm. Như có vị nhạc trưởng đầy quyền linh, vô hình dẫn dắt tài tình cả dàn giao hưởng hợp xướng khổng lồ, bởi hàng triệu sinh linh côn trùng lít nhít đủ kích cỡ, đủ loại. Chúng bám chặt đồng quê, giao tình ca hát. Báo hiệu đã tới mùa nẩy nở sinh sôi.

Sau trận mưa rào “rửa chùa” giao mùa từ xuân sang hạ như thế, lúa Chiêm lại được dịp mở cờ vươn lên. Khoai sọ, khoai lang, cà bát, lạc, vừng, ngô, đỗ… sau trận mưa đêm tươi mát… cứ vươn vòi, vươn ngọn, lá dài ra, hơn hớn tựa muôn vàn cánh tay mềm, thân ái muốn nứu bước chân tôi. Trời rạng Đông, xa tít tận chân mây, vén ra những khoảng sáng rộng dần, hồng rực. Tôi luống cuống kẹp lại ống quần ướt sũng, đã dầy chạt lông cỏ may từ lúc nào. Gai cỏ găm kín đầy lỗ vải, cà vào da ống quyển khiến tôi thấy rấm rứt. Chẳng còn nhiều thì giờ để nhổ chúng ra nữa, đành để vậy. Trèo lên xe, tôi đạp nhanh về phía hừng Đông ấy. Nơi đó không có trâu. Không có ngỗng. Không có lúa. Không có khoai…. Nơi đó không có cái thứ cỏ dị kỳ, chẳng giá trị nhiều. Nhưng lại cứ muốn quấn chân người, năng lưu khách thế này.

Cái làng bé nhỏ của tôi! 

Lai Xá – cái gò cỏ may khốn khổ của tôi!

Nơi tôi đã gắn bó một thời!

Kỷ niệm… buồn vui… lam lũ… nghịch ngợm… giận hờn… hy vọng… nhớ thương..!

Quê hương của tôi, cửa ngõ xứ Đoài, nhiều mây trắng lắm!…

(Khởi viết: 11.2005 – Chỉnh sửa lần cuối: 8.2011)

Gocomay

(*)  Cố hoạ sỹ – NSND Trần Kiềm, người miền Nam, là hoạ sỹ thiết kế xưởng phim truyện Việt nam…

___

>> Xem Phần 1; 2; 3 & 4 ở đây:

______________________

676 – Quê tôi xứ Đoài mây trắng lắm! (4)

P1060950.JPG

Xuân Qúi Sửu (1/1973) chụp với các bạn lớp 10A đã đi thoát ly về nghỉ tết (Từ phải qua trái-trước: Huyền, Ngọ, Dũng, Lợi; Sau: Bình, Phú, Trung Quyết, GCM) – Ảnh chụp ở sân nhà Huyền)

Gò cỏ may (4)

(tiếp theo)

Rời mái trường thân yêu. Cái Huyền đi học trung cấp Xây dựng ở Hà đông. Cái Ngọ đi học Sư phạm trung cấp ở Thường tín. Thằng Dương may hơn cả vừa xoẳn đủ điểm vào được Đại học Giao thông ở Cầu Giấy. Còn tôi, không nhận được giấy gọi đi học cũng chẳng được “đi bộ đội”, vẫn theo đít trâu cày. Cùng trang lứa, hay kém tuổi tôi chút ít thì bĩu môi xầm xì: “Tưởng học hành tài cán để làm vương làm tướng gì, ai ngờ, vẫn phải bám L… trâu”. Nghe thấy lời đàm tiếu to nhỏ đó tôi tím ruột, cúi gằm mà đi, không còn muốn gần gũi với ai nữa.  

Tôi nhớ mấy bữa xách đèn bão đi thi đại học đêm (*) ở cánh bãi, đầy con dĩn chỉ quen cắn người lạ tới mẩn ngứa trong bãi Sấu, nơi gần cái “Đồng Bương cấn” của Quang Dũng ấy. Vây quanh tôi là thằng Ch… thằng B… và cái D…  học cùng lớp, cùng trường suốt mấy năm liền. Sức học của chúng chỉ thuộc loại trung bình. Cái hôm thi đêm ấy, chúng bí còn phải cầu cứu tới tôi…. Nay chúng đều đã có giấy gọi đại học và trung cấp cả. Còn tôi lại ở nhà. Rõ là “học tài thi phận” thật. Thời đó còn “tù mù” chứ chưa có báo điểm công khai như sau này. Ai nhận được giấy báo tựu trường là “đỗ” còn cứ im im có nghĩa “trượt” không biết đâu mà phúc tra hay khiếu nại gì được. Cái kết qủa điểm thi và “hồ sơ mật” của tôi mà tôi tìm được sau đó cũng là một chuyện tình cờ ngẫu nhiên. Chứ bình thường thì không tài gì mà biết được.

Đó là hôm vào dịp sắp vãn vụ cấy lúa mùa rồi. Lúc ấy đã quá trưa, tôi vừa đi nhổ mạ về tới sân thì nghe có tiếng động cơ bành bành, tiếng nổ khá lớn cuả chiếc mô tô ba màu xanh sẫm mới toanh tiến lừng lững vào dừng ngay bên chiếc cối giã gạo cổng nhà. Trẻ con lít nhít quần đùi, cởi chuồng bụng ỏng đít beo chạy theo hò reo inh ỏi. Hoá ra là người quen cũ. Đó là anh Nhận (Lê Thế Nhận), bộ đội chống Pháp, được chính tay Hồ Chủ Tịch gắn huy hiệu “chiến sỹ Điện Biên” thuở nào, từng đóng quân tại nhà tôi, và có thời còn rất thích chị Quyền tôi. Duyên phận không tới, nay anh đã về quê tận Hà Bắc lấy vợ, có một lũ con. Anh khoe, mới nhập được hộ khẩu cho cả nhà ra Hà Nội. Chuyển ngành, anh ra làm chuyên viên trong Ban Quân sự Bộ Đại học tại số 5 Lê Thánh Tông Hà nội. Bẵng đi phải tới ngót 15 năm anh mới “bình bịch về làng” trở lại thăm gia đình cố nhân, nơi anh có nhiều kỷ niệm đẹp. Khi biết tin tôi đang chờ kết qủa kỳ thi tuyển vào đại học, anh ghi số báo danh và tên hội đồng thi của tôi, hứa sẽ hỏi giúp.

Mấy tháng sau anh giữ đúng lời hứa. Và cũng nhờ sự chỉ dẫn cuả anh tôi mới biết đường mà lên tận cái phố Thắng, huyện Hiệp Hòa tỉnh Hà Bắc xa xôi, nơi sơ tán cuả trường Đại học Tổng hợp Hà nội. Để tận mắt được đọc những dòng chữ cuả vị chúa tể nông thôn, trưởng công an xã Nguyễn Khắc Sung phê đểu lên tờ phiếu thẩm tra lý lịch (trích ngang) kẹp trong hồ sơ thi vào đại học tổng hợp của tôi. Lúc đó trường đã ổn định năm học mới được gần một học kỳ. Chậm chân quá mất rồi.

6951401241654478.jpg

Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho các chiến sĩ tiêu biểu của chiến dịch (từ phải sang): Bạch Ngọc Giáp, Hoàng Đăng Vinh, Nguyễn Văn Thuận, Lê Thế Nhận (Anh Nhận ló mặt ở góc trái tấm hình này) – Nguồn: thanhnien.hochiminhcity.gov.vn & vietnam.vnanet.vn

Chán nản, tôi nhìn mọi người, mọi việc quanh tôi, mới hôm qua tôi còn thấy sinh động, có phần dễ thương mà hôm nay sao cay nghiệt thế. Thật chẳng sai, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”? Tôi âm thầm, lẫm lũi mà có khi cả ngày chẳng cạy răng, chẳng nói một lời. Tôi dầu dĩ thì U tôi cũng chẳng vui. Ngày nào cũng như ngày nào, suốt từ lúc gà gáy lần thứ nhất bà dậy đem gạo đi giã. Dừng chân, ăn bát cơm nguội, ra đồng. Tối về thì hết sảy thóc, dần sàng, lấy bèo, băm chuối, nấu cám, đan chổi, bóc lạc, sát củ nâu nhuộm vải, khâu vá hay rút rơm trâu lúc đêm đông băng giá. Mùa màng thì khỏi phải nói, bận không thể tả được. Ngay cả lúc gọi là nông nhàn U tôi cũng lọ mọ luôn tay nơi đám rau muống, khoai nước vuờn Dâu, đám rau cải bẹ, cải xanh hay đỗ đen, vừng, lạc vỡ hoang nơi gò Chùa Do, bờ mương hay gò Vườn Chuối. Mùa cắt cỏ Trâu, khi có tôi đảm nhận rồi thì U tôi lại xuống Đồng Sai bòn nắm rau dừa, rau ngổ hay rong đuôi chó non đem về cho lợn vừa làm chất độn phân xanh. Mùa cà bát, kiểu gì bà cũng vỡ bằng được vài luống ven bờ mương Rộc để khi thu hoạch, cà đem phơi tai tái mà muối và nén chặt hai lấy vại to kếch sù, để giành ăn quanh năm. Không lúc nào là tôi thấy U tôi không tìm ra việc mà làm. Ngay cái hôm anh Uy tôi về chào mẹ lần cuối để đi chiến trường B, và mãi không còn trở về ấy, U tôi cũng không có thời gian mà đưa tiễn nữa. Bà còn mải đi cấy. Nhìn cái dáng cao đen cuả anh tôi qua cổng ngoài, rồi khuất dần sau rặng phi lao xa xa mà không có mẹ đi tiễn, lúc đó tôi giận U tôi lắm. Tiếc gì, không nghỉ một buổi cấy mà đi đưa anh tôi vào cái thời khắc cuối cùng lịch sử ấy. Tham việc thì đúng rồi, nhưng không hẳn như thế.

Mãi sau này tôi mới hiểu, anh cả của tôi đã nợ U tôi nhiều lắm. Cái chuyện lấy vợ ấy! Khiến U tôi giận. Lúc ra đi anh tôi đã ba mươi rồi mà vẫn “lông bông lận đận” cả sự nghiệp lẫn đường vợ con. Anh tôi ra đi không hẹn ngày về đã phá tan hoàn toàn mọi dự kiến lớn lao mà bà từng sắp đặt, từng vun vén bấy lâu, sớm mong có đứa cháu nội đích tôn. Đỗ vỡ, thất vọng, U tôi bỏ đi cấy như chạy trốn hiện thực ê chề. Để khỏi bị gục ngã. Để khỏi làm chùn cái bước “chân cứng đá mềm” của người lính chiến – người con trai khôi ngô, hiếu thảo mà U tôi vô cùng thương qúi và giành nhiều tình cảm nhất suốt mấy chục năm dòng. 

Hằng đêm, khi mọi người đã ngủ yên. Khi xóm làng chìm sâu vào tĩnh lặng, là lúc U nhớ tới đứa con trai đầu đàn, người chiến sĩ. U tôi khóc một mình. Kể từ khi anh tôi đi B, đêm nào cũng vậy!… … Tình cảm sâu nặng của người mẹ già giành cho đứa con yêu, ra đi chẳng có ngày về, mấy ai đã hiểu thấu?

Anh Uy tôi ngã xuống bất tỉnh, vì trúng một viên bi nhỏ xíu, bom của Mỹ vào hộp sọ, trong cái mùa hè đỏ lửa tại núi rừng Trường Sơn. Anh tôi bị hôn mê liên miên, sau bốn ngày thì trút hơi thở cuối cùng. Nhằm đúng ngày 19 tháng 5 (tức mùng 7 tháng 4 âm lịch) năm 1972.

ap_20110704011432366.jpg

Tấm bia mộ của anh tôi tại NTLS Trường Sơn, Quảng Trị- Ảnh: Bạch Dương chụp ngày 30.06.2011 (chắc là để tránh ngày đại hỷ 19.05 nên anh tôi đã được ghi hy sinh sớm hơn 4 ngày để tránh húy kỵ chăng?) 

Tôi chỉ hiểu được một phần sự thật khi U tôi sắp nằm xuống mãi mãi trên cánh đồng gò cỏ may Đình Lỗ mà vẫn thương xót anh tôi, bỏ rơi cha mẹ mà chưa kịp lấy vợ làng.

Dạo đó, tôi cũng không biết U tôi cứ khóc anh tôi nhiều như vậy, thì ngủ vào lúc nào. Lên giường nằm thì sau rốt. Mà sáng lại dậy đầu tiên. Cứ ron rón quán xuyến mọi công việc một cách tinh tươm như không hề có chuyện gì từng xẩy ra hằng đêm cả. Lưng U tôi ngày càng còng tệ. Trông tội lắm. Nhưng vẫn bền bỉ dẻo dai một cách thần kỳ.

Trở lại chuyện về cái vị hung thần, người làng Yên Bệ mà tôi đã đề cập tới lúc trước. Đó là ông Nguyễn Khắc Sung, một đảng uỷ viên, trưởng công an xã, người khác thôn, với gia đình chúng tôi, chắc chắn là không hề có thù oán gì. Ông ta không biết nghe kẻ xấu nào xúi dục, đã nhắm mắt phê bừa vào cái lý lịch trích ngang Hồ sơ thi đại học của tôi. Hơn ba năm sau, anh Vượng tôi từ chiến trường B về thăm nhà, nhìn thấy lời phê kỳ cục như vậy trong hồ sơ của đứa em trai mà trường Đại học Tổng hợp trả về thì không tin vào mắt mình nữa. Quen với tác phong quân nhân ngay thẳng, anh xe đạp lóc cóc tìm sang nhà gặp “đồng chí Sung”, chỉ muốn hỏi cho rõ ngọn ngành? Cho vợi nỗi ấm ức, chứ việc đã lỡ, đã qua, có thay đổi được gì đâu? Đáng lẽ ra, người cán bộ vì dân, giữ hậu phương yên ấm, khi thấu hiểu nỗi bức xúc ấy, nên có một lời ôn tồn hóa giải khéo léo như thế nào đấy với nạn nhân thì chắc cũng xuôi. Đằng này, với bút tích phê láo và chữ ký Nguyễn Khắc Sung còn rành rành trong phiếu thẩm tra lý lịch như thế, ông ta vẫn “quan phụ mẫu” hách dịch, quát tháo ầm ĩ…

Không ai nhịn ai, dẫn đến co kéo xô đẩy nhau, kết cục cả chiếc xe đạp của anh tôi và ông Sung cùng ngã xuống ao. Ông chúa tể nông thôn liền giở võ Chí phèo, hô hoán dân quân tới tịch thu mọi bằng cớ “gây rắc rối” và bắt trói anh tôi giải lên công an huyện Hoài Đức giam giữ. Cũng may, cái tay phụ trách công an trên huyện khi ấy, lại là bạn cùng nhập ngũ với anh tôi trước đây nên sau khi dân quân xã ra về thì anh tôi được tha ngay.

Sau biến cố ấy, ông Sung tìm cách tiêu hủy, chùi sạch mọi bút tích bẩn của mình nhằm tránh hậu họa. Còn chúng tôi, do bận rộn với mưu sinh, cũng chẳng ai có thời gian và hứng thú để khơi lại những vết thương cũ đã thành sẹo mà làm gì.

Thời gian trôi nhanh, tại phương trời xa, ba chục năm sau tôi tình cờ gặp lại vài người làng, ôn lại nhiều kỷ niệm vui buồn nơi làng quê, chợt nhắc lại câu chuyện cũ, họ cho biết, gần cuối đời đám “Người vác tù và hàng Tổng” kém phẩm hạnh cùng thời với ông cán bộ Sung cũng chả được yên. Họ bị nhiều nạn nhân phẫn uất nguyền rủa, quấy phá. Nay sào lạc non bị nhổ, mai đống rơm bị đốt, con bò bị cắt gân chân, lối vào nhà thường bị rải gai bồ kết. Rồi mái ngói thời bình mà lại bị “pháo kích” gạch củ đậu hằng đêm …

Sự trả thù của đám“con ong cái kiến” thấp cổ bé họng, ít chữ, ít lý lẽ chỉ hành động kiểu “võ biền/ chiến tranh du kích” trường kỳ, âm ỉ… cũng khủng khiếp vô cùng. Biết chống đỡ thế nào, khi xóm giềng làng nước tối lửa tắt đèn đều “mặt giăng mặt giời” cả. Đám dân đen còn xôn xao chuyện những kẻ chức quyền mà làm các việc thất nhân tâm, đến khi hết quyền thường bị những hồn ma (các liệt sỹ ?) luôn hiện về quấy phá đòi mạng (?)… Và một trong số đó, khi đang trong bữa ăn, bỗng dưng thổ hộc bãi máu tươi đầy mâm cơm, gục xuống chết bất đắc kỳ tử, hãi hùng. Nghe những câu chuyện rùng rợn đó mà tôi chả mấy tin. Nhưng lại là câu chuyện có thực thời hậu chiến đã xẩy ra trên quê hương lam lũ của chúng tôi, khiến tôi không khỏi chạnh lòng.

Bản thân ông Nguyễn Khắc Sung, may mắn thoát được trận bom Yên Bệ mùa hè 1972 ấy… tưởng cuối đời an vui hưởng tuổi già cùng con đàn cháu đống… ai ngờ, vẫn tráng kiện hẳn hoi, mà sinh lẩn thẩn từ lúc nào. Nặng dần, lời nói không tự chủ được, ăn uống cũng không còn phân biệt được thức ăn với chất thải, nước sạch với nước dơ… Mặc dù đã được người nhà tận tình đem đi chữa chạy, lại cầu cúng rất tốn kém khắp nơi mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Cái số hẩm của ông Sung là vậy, đã không được “sung túc” hay “sung sướng” mà lại cứ “xung khắc” bất hòa, nên đã sớm về chầu Diêm Vương khi còn chưa tới tuổi “cổ lai hy” qúi hiếm như đa số thảo dân đồng liêu, cùng trang lứa trong vùng. Đành rằng chuyện “sinh tử bất kỳ” ai mà nói hay, biết trước được. 

Cũng là một nạn nhân khốn khổ của vài đứa tiểu nhân đa quyền thiểu đức, nhưng  tôi không bao giờ tán đồng cách giải quyết mâu thuẫn với nhau, nơi làng xóm thân yêu bằng bạo lực kiểu “lấy oán báo oán” như cách hành xử trả thù lặt vặt đó. Cũng như chẳng mấy tin vào những điều dị đoan suy diễn ly kỳ. Song tôi khi nghe được các chuyện ân oán dai dẳng như thế, cũng thấy sởn tóc gáy. Thế mới biết kẻ ác, sinh thời dù quyền năng lộng hành đến mấy cũng chẳng thể nào tránh được “ác giả ác báo” là vậy!

*

*             *

Lầm lũi nơi bùn lầy nước đọng gần đầy năm thì tôi có cơ hội được thử sức mình một lần nữa qua kỳ thi tuyển cũng khá gay cấn, để thi vào lớp quay phim khóa 6, Trường Điện ảnh Việt nam (ĐAVN) ở 33 Hoàng Hoa Thám Hà nội. Cái háo hức, sôi nổi như dạo đi thi đại học năm trước không còn. Nay tôi nhìn cuộc sống có phần lạnh lùng, trầm mặc hơn. Các môn thi: lý luận Văn học, Lịch sử và Vật lý thì tôi làm bài chẳng có gì vất vả cả. Vì nó không quá khó đối với khả năng của tôi. Nhưng đến các môn năng khiếu như phân tích tranh, cắt cúp bố cục lại tranh và môn chụp ảnh thì tôi bộc lộ nhiều yếu kém. Lúc đó tôi mới nhận rõ cái môi trường làng quê tăm tối của đám trẻ chăn trâu cắt cỏ chúng tôi, chưa bao giờ có điều kiện để trau dồi hay làm quen với bộ môn nghệ thuật thứ bảy cao siêu này. Tôi đạt điểm năng khiếu quá khiêm nhường nếu không muốn nói là yếu kém. Bù lại do có điểm kiến thức các môn Văn-Sử-Lý khá cao lại được công thêm vài ba điểm “con em trong ngành” (**), nên tôi vẫn trúng tuyển và nhận giấy báo tựu trường vào ngày 26 tháng 4 năm 1973.

P1060938.JPG

Lớp Quay phim Khóa 6-Trường ĐAVN-33 Hoàng Hoa Thám HN-1973 (Gocomay đứng góc trái phía sau)

Trường ĐAVN lúc đó vẫn là hệ trung cấp, học ba năm. Nhưng hàng trăm người đi thi mà chỉ mười tám người trúng tuyển, cũng làm tôi khuây khỏa phần nào. Thời gian này, Thầy tôi không còn công tác ở Công ty Nhiếp ảnh Hà nội nữa. Ông đã về hưu được hai năm. Nhưng vẫn đi làm chấm ảnh thuê công nhật cho Phòng ảnh Báo Hậu Cần (Tổng cục Hậu cần) ở 18 Cửa Đông Hà Nội. Ông nhường cho tôi cái xe đạp cũ mác Marina của Pháp, mà ông đã mua và sử dụng liên tục từ năm 1948. Ông trịnh trọng nói: “tao suốt đời làm ảnh nhưng ít học nên chỉ là cu ly, không có đồ nghề máy ảnh, máy phóng gì ráo sất. Nay chỉ có con ngựa già này, tao cho mày làm vốn liếng để mong sau này mày khá hơn tao”.

Ấy thế mà không có cái “con ngựa già” không chuông không phanh qúi hoá đó thì không biết tôi phải xoay xoả ra sao trong các đợt thực tập chụp ảnh, quay phim suốt ba năm học vất vả ở trường.

Cái năm về Trường điện ảnh học quay phim đó, tôi chưa đầy 19 tuổi. Là người duy nhất trưởng thành từ nông thôn. Giữa đám công tử hào hoa trong lớp mà tôi ống quần kẹp, túm (cho xích xe đạp khỏi cắn) quê một cục, trông chẳng khác gì anh hoạn lợn, anh xe thồ. Khiến đám đồng môn như bọn thằng Hòa, Định, Thanh, Tuấn… cười trêu, luôn mồm gọi: “Cường khoai” hay “Ma đồng”. Tôi bỏ ngoài tai hết. Ăn thua ở cái nghề. Không thành nghề thì chải chuốt để làm quái gì.

Vào trường học, tôi như mảnh đất khô hạn lâu ngày được tưới nước. Tưới đến đâu là thấm đến đấy, thần tình! Khiến mọi người cả thầy lẫn trò trong lớp đều kinh ngạc. Từ ngu ngơ rốt ổ, chỉ sáu tháng sau tôi đã vươn lên nhóm dẫn đầu. Và giữ nguyên phong độ học hành tinh tấn cho tới khi tốt nghiệp ra trường.

Trở lại chuyện lúc mới nhập học. Sau cái buổi nhận chỗ, chiếc gường cá nhân trong gian lán nứa nhà nội trú, ở cùng với Cao Minh Thành, Nguyễn Phúc Ánh, Lê Định, Vương Khánh Luông, Phạm Phúc Đạt và Vi Kiến Hòa xong, tôi lên phòng tổ chức lấy giấy giới thiệu về địa phương cắt hộ khẩu. Tiện thể về trường cấp ba Sơn Đồng cũ xin giấy chuyển sinh hoạt Đoàn. Xong việc, vừa đúng chiều thứ bảy, tôi đạp xe qua huyện lỵ, Trạm Trôi rồi ghé về qua phố Lai chơi, chào ông Đương, cậu mợ Nhị để chuẩn bị về trường. Ra về, mợ Nhị (có tật nói ngọng) còn chặn xe đon đả:

– Vào nàm bát bún măng đã cháu. Măng nứa ông Thành Nhung mới mang từ Sơn Tây về, tươi ngon nắm!

– Cám ơn mợ, cháu phải vội về, U cháu đang chờ cơm ở nhà.

Vừa nói, tôi vừa lên xe vòng đường bờ kênh Rộc, đạp về phía cổng ngoài. Trời sắp nhá nhem, tới gần gốc đa thì cũng là lúc trâu bò từ đồng lững thững về chuồng. Chú trâu kềnh thân quen của tôi ngày nào, giờ đã sang tay chủ khác. Khi nghe tiếng xe đạp lách cách của tôi từ xa, con trâu rất thính đánh hơi, bén người quen đã dừng lại, quay ngoắt, nghênh đôi sừng cong soãi như cánh tay lực sỹ dang rộng ra chào đón tôi. 

P1060958.JPG

Dừng xe, tôi tiến lại sát con vật ân tình. Một tay nắm sẹo, tay kia vuốt má, tôi nhìn sâu vào đáy mắt nó. Con trâu chịn cái mõm đen ươn uớt hít hít tay tôi, mắt ngước nhìn tôi, buồn, đục lờ, hoen đẫm nuớc, như trách móc. Đôi sừng năm tháng như oải ra, mệt mỏi thở phì phò, hơi thở nặng, hôi, nóng hổi. Nó gầy, già và chậm chạp nhiều rồi chứ không còn tuấn tú như xưa nữa. Tự dưng bao kỷ niệm ập về, nước mắt tuôn ứa ra, tôi buông chạc sẹo trâu, lén quay đi, leo lên xe, đạp vội vào cổng làng mà như sợ có ai đuổi rát đến nơi mà không dám quay lại đằng sau lần nào nữa… 

(còn nữa)

Gocomay

(*) Cái muà hè 1972 đó, phải tránh máy bay Mỹ nên chúng tôi phải đi thi đêm từ 3 giờ sáng.

(**) Cậu ruột tôi là nhà quay phim nổi tiếng Nguyễn Đắc, người quay “Chung một dòng sông” năm 1958, bộ phim truyện đầu tiên cuả nền Điện ảnh cách mạng Việt nam.

___

>> Xem Phần 1; 2 & 3 ở đây:

____________________________

675 – Quê tôi xứ Đoài mây trắng lắm! (3)

hanoi8.jpg

Mũ rơm thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc (Hà Nội) –  Ảnh:  Xuân Liễu – Nguồn: vapa.org.vn

Gò cỏ may (3)

Vào lúc cuộc chiến tranh phá hoại cuả không quân Mỹ leo thang trên miền Bắc ngày càng ác liệt. Làng Lai gần Hà Nội, tiện đi lại nên như cái túi chứa người sơ tán từ thành phố đổ về. Các cơ sở công thương lớn như các hợp tác xã: “Rèn Đồng tiến” ở Khâm Thiên; “Nhiếp ảnh Phương Đông” ở Cửa Nam, bờ hồ Hoàn Kiếm, Hàng Bài … cũng rời cơ sở sản xuất về làng. Rồi “Viện Thiết kế Điện – Bộ Điện và Than” cũng chọn làng tôi làm chỗ cắm đại bản doanh. Lai xá, trong suốt hai đợt chiến tranh phá hoại ác liệt thế mà không dính trái bom nào, nhưng bàn chân con người tứ xứ đổ về lại dẫm nát nhiều di tích qúi giá. Mà mãi sau này lớn khôn, đi nhiều nơi nhìn lại, nhìn về, tôi mới thấy như thế chứ khi còn sống ở làng, tôi nào có biết gì.

Mấy đợt đào hầm hào trú ẩn cũng như cho các cơ sở mượn đất làm lán sơ tán đã phá tan mất Văn Chỉ linh thiêng thờ các bậc tiền nhân đại trí thức của làng. Đường làng gạch lát nghiêng, bị sụt lở nhiều đoạn. Dãy Sòi cổ thụ dọc bờ kênh lâu đời là thế cũng bị đem đốn bằng sạch lót nắp hầm tăng xê. Nặng độ hơn, toàn bộ di tích bình phong và đài nghiên đầu làng. Nơi chúng tôi, ban đêm vẫn ra đó hóng mát về mùa hè. Cũng như xem bắn pháo hoa ngoài Thủ Đô vào các dịp mừng Quốc khánh mùng 2 tháng 9… đã bị san phẳng. Cái ao Chùa nghiên mực, nơi tụ thuỷ, tụ khí đầu làng bị lấp đầy. Con đường uốn lượn mềm như nét bút lông, lối mòn đi ra tỉnh của Thầy tôi và nhiều người trong làng, có “Mũi Bút” vươn về Thăng long xưa đẹp là thế mà bị đào bỏ, được qui hoạch đắp lại bằng con đuờng mương thẳng dẵng từ quốc lộ, đâm xồng xộc vào giữa cổng làng. Bên ngoài con kênh Rộc ôm ấp thắm thiết luỹ tre làng từ ngàn xưa, được thay bằng con mương nổi liên huyện, liên xã. Án ngữ ngay trước mặt ông chó đá linh thiêng khiến ông hết việc làm và cùng với vô vàn bia đá, cầu đá bị thất sủng khác rủ nhau, lũ lượt vào các lò nung vôi để xây nhà kho, sân kho (sau này bỏ hoang) cuả hợp tác nông nghiệp. Cũng đành thôi, không còn thiêng, các ngài hóa (thành khói trắng) bay cao lên trời xanh, tô điểm thêm cho cái xứ sở, vốn dĩ nhiều mây trắng này.

LUAVELANG.jpg

Cổng làng sau khi di tích ao chùa và đài nghiên bị san phẳng – Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn

Thời còn ở làng tôi hay lân la với những người nghèo, gần họ tôi học hỏi được nhiều những kinh nghiệm tinh tế về cuộc sống. Các kiến thức truyền miệng thường phong phú, không giống với mớ sách vở khô khốc trên ghế nhà trường. Họ tới nhà tôi giã gạo nhờ và bên cối giã ấy, ngày đêm, trong tiếng chày thình thịch như nhịp đệm cho nhiều câu chuyện không dứt về một vùng quê của tổ tiên tôi. Đôn hậu, chất phác, họ chỉ cho tôi biết cách chọn chiếc đòn gánh nào là tốt, gánh được nặng, dẻo lại đỡ đau vai. Họ dạy tôi cách câu một con ếch hay nhái bụ gan lì. Khi đi bắt cua nhìn lỗ hang mà phân biệt được cái hang nào có cua to, cái hang nào nhăn nhẵn hơi ướt là có rắn nuớc rắn liu diu, cái hốc nào nhẵn thín, bóng vết trườn lại hơi khô là có rắn độc nguy hiểm. Còn lỗ nào nào có cái mà mỏng tang là chắc chắn có chú ếch trú đông béo vàng đang đợi. Những người nông dân tứ thời vật lộn giành miếng sống chỉ cho tôi, hễ mang đuốc đi soi ếch đêm, sau trận mưa rào phải cảnh giác với loài rắn Hổ mang hay Mai gầm cũng rời hang, có thói quen cứ bám sau bó đuốc sáng mà kiếm mồi… và tuổi thơ tôi cũng bắt đầu vỡ ra câu tục ngữ: “theo đóm ăn tàn” là có xuất xứ từ thực tế đó trong đời sống. Rồi kinh nghiệm bắt chuột đồng tháng Mười ruộng lúa nếp, cả cách chế biến món đặc sản thịt chuột thơm ngon đầy hấp dẫn này. Tháng ba, nước trong vắt nhìn tận đáy bùn thì xuống đồng Sai bắt ốc soi. Rồi cách luộc ốc, chọn gai và thao tác nhể ốc, ăn ốc… như thế nào cho ngon cho lành. Khi đi câu thì cách phân biệt tăm cá chép, cá riếc, bông bống đỏ bụng hay tăm cua… chuyên dỉa dỗ mồi hay thiến mất luỡi câu. Tôi còn học được cả cách chữa say nắng, cảm nắng. Cách dùng nước đái cứu người bị cảm ở ngoài đồng. Giữa trưa nắng nóng, ra nhiều mồ hôi thì phải ngồi nghỉ ở bóng mát và quạt cho ráo mồ hôi thì mới được nhảy xuống ao hồ bơi lội…

Thời kỳ học cấp một, tôi học ngay thảo xá đình Đụn, sát nhà. Nếu đi học buổi sáng thì chiều chăn trâu. Nếu đi học buổi chiều thì sáng cắt cỏ. Tôi vẫn cứ thích học ban sáng hơn vì chiều chăn trâu còn có thể mang theo sách mà ôn bài và làm bài tập được. Chứ cắt cỏ ban sáng thì đành chịu. Tôi nhớ có một vài lần, vừa chăn trâu lại kèm thêm đàn ngỗng. Những con ngỗng sư tử to vật đang mùa đẻ trứng đi lặc lè. Giống ngỗng này qúi hiếm lắm. Đó là kỷ vật cuả anh Uy tôi, bộ đội dạy trường sỹ quan cao xạ trên Sơn tây mua từ hồi còn bóc trứng. Đem về tặng thằng em út nhân một đợt về phép thăm nhà. Ngỗng trước trâu sau. Trời chuyển mùa, oi bức khó chịu quá. Con trâu cũng ươn mình, sinh cáu kỉnh, trái tính trái nết khác thường cứ đòi la liếm tợp trộm hàng lúa non mơn mởn sát ven bờ. Bị phát giác, bị mắng cảnh cáo, nó sinh cùn, điên tiết quay ngoắt lồng tế lên, dây chão căng ra kéo tôi ngã sấp ngã ngửa. Sách vở mang theo học bài rơi tứ tung, dính đầy bùn đất, gột không sạch nổi, lấm lem. Tới lớp bị cô giáo phạt vì làm mất điểm thi đua “vở sạch chữ đẹp” cuả lớp, đến là tức.

Thời đó, có được tập giấy hẩm có dòng kẻ mà viết là qúi lắm rồi. Ăn mặc mà có bộ quần áo lành lặn một chút để tới trường là không đơn giản chút nào. Tem phiếu thương nghiệp chia cho hộ nông dân, may được quần thì thôi áo hay ngược lại. Vải khan hiếm, U tôi cũng chỉ may cho tôi vài ba chiếc quần đùi, mặc thường trực về mùa hè và hai chiếc quần xanh chéo bạc màu chữa lại từ đám quần cũ của các anh tôi đi thoát ly để lại, giành mặc về mùa đông.

Nhớ cái bữa, hồi còn học lớp bốn, có một kỷ niệm không thể nào quên với các bạn bè thời thơ ấu. Bạn cùng lớp, đám con trai có thằng Thành tếu, Giang Lồ, Ninh Bè, Minh Miễn, Qúi Thách, Thịnh và Hoạt Củng, Thìn Sửu Biên, Dục điếc, Đại Trảy, Dương Trạch, Tuấn Hợi, Khải bòi, Dũng Hà, Đắc Tửu, Toàn Huyền, Thái Sơn, Hiển Cuờng Qúi, Đồng Hợp, Thiện cưng, Trường Quang, Trịnh Tá, Đức và Vượng Tuyên Sang, Quyết Quản, Đức Cứ, Cường Hảo, Ngọ Đen, Bình Phiếm. Lũ con gái thì cái Bảo Thà, Hà và Thanh Ba Lai, Tâm Bốn Ngọ, Chì Tuất Cầu, Phúc Bốn Lĩnh, Loan Hà (A), Thành Tuệ Bân, Hòa Sam, Thọ Mười Trản, Hòa Sam, An Tổng Tắc, Mai Thiện Tồn, Mùi và Ngọ Giáp Xuyên, Ngọ Tửu, Hạnh Chinh Huyến, Văn Đồng Giá, Nhung Thêu, Huyền Lân Khảo. Thêm mấy đứa Hà Nội sơ tán về như Tâm Tạc, Châu Loan, Loan B, Phương (Trảy), Vương Chí Cường, Toàn Nên, Quang Thọ Nủa, Lý Thắng, Lương Ỷ… Giờ ra chơi, một hôm, cô giáo Bích cho chúng tôi chơi trò “bịt mắt bắt dê”. Tôi trong vai người bị bịt mắt, thằng Giang Lồ vai con dê, nó chơi thân với tôi lắm vì tháng tám, mùa trăng hai thằng vẫn thường rủ nhau đi câu thả hồ đồng Đinh, Ao Trại. Giang làm lớp trưởng, bố nó làm cán bộ uỷ ban xã nên được cô giáo Bích nể, qúi hơn người. Cả lớp con trai con gái thì đứng thành vòng tròn xung quanh làm hàng rào. Tôi và thằng Giang ở giữa. Thằng Giang có ý chơi ác, xỏ tôi. Nó lừa tôi tới bên một vũng nước còn đọng lại chưa khô sau trận mưa hôm trước, nó đánh tiếng: ” be.. be.. “. Tôi căn tiếng động và vồ hụt nó, ngã ngồi bệt giữa vũng bùn bẩn, khiến cả lớp được một mẻ đau bụng vỡ cười. Tôi phải chạy về nhà thay quần khác, tìm mãi trong hòm mà không có cái quần nào lành, U tôi đang mùa cấy, bận qúa chưa kịp khâu. Tôi phải bỏ dở buổi học chỉ vì còn mỗi chiếc quần đùi lành duy nhất đã bị bẩn vì cái trò mua vui cho cả lớp như thế.

P1060933.JPG

Rủ Ngọ Đen ra thăm Nhung Thêu (thứ 3 từ trái sang) ở Vũng Tàu sau 34 năm…

Lên cấp hai, cả xã có tới bốn thôn: Lai Xá, Yên Vĩnh, Yên Bệ và Đại Tự mà chưa có một trường cấp hai nào, phải sang làng Ải, xã khác học nhờ. Đàn ông làng Ải có nghề đánh “xiếc chì” (*) thường sang đánh trộm cá ở ao chuôm làng tôi nên hai bên thường nhìn nhau không được thân thiện cho lắm. Nay, không có trường phải đi học nhờ, cũng tủi. Gọi là trường mới khai trương mà chỉ có thầy, cô chứ chưa hề có cơ ngơi trường sở gì cả. Chúng tôi ra sức mà đóng góp để xây dựng trường. Trường chưa xong thì cứ nay chùa, mai lán, thậm chí mượn sân rộng của nhà dân làm nơi học, nơi chào cờ, sơ hay tổng kết hàng tuần, hàng tháng, hàng năm.

Ở cả cấp một lẫn cấp hai, tôi học hành chỉ làng nhàng, lại mắc cái tật hay nghịch dại, nghịch tinh nên thường bị các thầy cô giáo trù ghét. Hồi học lớp năm, tôi suýt bị đuổi học vì hai trò nghịch ngu dại. Vụ thứ nhất, trong đợt đi phụ nề xây trường mới, tôi trêu đám thợ mộc đang xẻ gỗ làm xà bằng việc bôi nhọ nồi lên vành điếu cày của họ. Vụ thứ hai, khi đi lao động đào hầm và làm lán tránh máy bay tôi dùng dao khắc dấu lên thân mấy cây xoan các cụ trồng trên đường đi về. Sự việc bị phát giác và tôi đã bị bêu dương cảnh cáo toàn trường.

Hình phạt tại gia còn nghiêm khắc hơn nhiều, tôi bị nọc ra giữa sân gạch, vừa luận tội, U tôi vừa vung roi vụt tơi bời. Roi của bà chính là chiếc gậy chăn ngỗng quen thuộc của tôi hàng ngày. Nó luôn được giắt trên mái hiên, phía trên gian chuồng ngỗng. Tới lúc nẩy người lên, bật máu tươi, tôi mới thấy được cái tay tre đực già nhẵn bóng ấy nó vừa chắc lại vừa dẻo như thế nào. Tôi hận U tôi lắm, nên đau cỡ nào cũng cắn răng chịu đựng mà không hề than khóc.

Nhưng sau trận đòn, những giọt nước mắt nóng hổi trào ra từ đôi hõm mắt trũng sâu đen ngòm như lỗ dế của U tôi, khi bà ôm chầm lấy tôi sau trận đòn (thù?) đau khổ đến tột cùng nấc lên, nấc lên mãi, mới thốt ra được vài câu đứt đoạn, nhát gừng: “U tồi lắm…, U xấu lắm phải không con…, ối con của tôi ….” thì tôi lại oà khóc. Tôi đã từng giận, tức U tôi nhiều lắm, vì bà dữ đòn, bà tham công tiếc việc, khiến con cái phải khổ lây. Nay nhờ trận đòn đáng nhớ ấy, tôi mới thấy thương U tôi hơn, thấy cái lỗi do chính tôi gây ra chứ không ai khác. Kể từ đó tôi không còn nghịch nhiều như trước nữa.

Hết cấp hai, muốn học cấp ba, phải thi chuyển cấp. Cả thôn dăm sáu chục đứa học cùng, nay còn khoảng chục mống đủ điểm vào học lớp tám. Lại đóng góp, lại lao động xây trường, từ những viên gạch đầu tiên. Rồi lại sơ tán, lẩn lút vào các lán trại xa xôi khuất nẻo thuộc xã Sơn Đồng có phong tục “toàn dân ỉa đồng” vào các buổi sáng tinh mơ. Hàng ngày, tôi phải dậy từ bốn giờ sáng. Vệ sinh cá nhân xong chỉ kịp rang vội nắm ngô răng ngựa, cho vào ngăn túi rết là lên đường ngay. Vừa đi vừa ăn, vừa ôn lại bài. Đi lối Bẫm, qua chuôm Đồng Đinh, đường đứt phải tụt dép cao su cắp nách, sắn quần lội qua. Nhằm làng Thìa tiến bước. Qua được làng Thìa Yên Vĩnh thì tới làng Thìa Yên Bệ, cái làng mà sau này, vào muà hè 1972, lúc tôi đã tốt nghiệp cấp ba, không còn phải qua đó nữa thì bị trận bom tấn kinh hoàng, với hàng trăm người vừa chết vừa bị thương. Trong số đó có cả bà vợ ông Bộ trưởng Ngô Minh Loan, đương kim Bộ trưởng Bộ Lương thực – Thực phẩm thời đó về sơ tán. Nơi đây còn có một hung thần nữa, có quan hệ tới một bước ngoặt lớn trong đời tôi. Nếu có dịp, tôi sẽ kể sau. Còn lúc này tôi đang trên đường đi học lớp tám mà.

Băng qua Yên Bệ tới ngã tư Sơn đồng rẽ trái đi về phía Ngòi, Vạng khoảng hai cây số nữa thì quẹo phải vào cái xóm Trại hẻo lánh rìa phía Nam làng Sơn Đồng là đến nơi lớp học ẩn náu tránh máy bay. Giữa khu ao bèo tây hiu hắt, chiếc lán lợp gianh nhô lên, xung quanh lán đắp đất dầy như ụ pháo cao xạ, bàn gỗ tạp mọt đục lỗ trỗ và ghế cũng bằng đất. Ngay cả cơ ngơi ấy, chúng tôi cũng phải tự làm lấy mà học. Người ta lập luận những ghế đất như thế vừa tiết kiệm gỗ lại rất lợi hại vì nó có tác dụng giảm sát thương bom bi rất hiệu qủa. Ừ cái khó cũng ló cái khôn thật. Chỉ tội khi trời mưa lán dột, ghế đất nhão ra, đít quần cả con trai lẫn lũ con gái cứ miết mãi trên bùn, lúc khô, cứng quèo như những chiếc mo nang hay bánh đa dầy cộm. Ai cũng đều thế, cuời xòa, hoà cả làng…

cdv1.jpg

Sơn Đồng là làng nghề lâu đời về đẽo tượng Phật. Nhưng thời đó, sản phẩm này đã bị cấm… – Nguồn: baodatviet 

Sang năm sau, lên lớp chín thì, vì nhiều lý do khác nhau, phần đa, lứa “sinh viên cấp ba” của làng tôi, bỏ ngang gần hết. Họ đi học trung cấp, công nhân hay bộ đội cả, còn trơ lại có bốn mống. Hai đứa con trai, hai con gái. Thằng Dương con bà Cúc Lan, cái Huyền con ông Lân Khảo, cái Ngọ con ông Giáp Xuyên và tôi. Ba đứa tuổi Giáp Ngọ còn thằng Dương tuổi Ất Mùi. Tôi vẫn phải cắt cỏ, chăn ngỗng, chăn trâu và phụ U tôi đồng áng như xưa. Nhưng biết suy nghĩ, chín chắn hơn chứ không còn nghịch ngợm như trước nữa. Tôi luôn thuộc nhóm đứng hàng đầu trong lớp vì hầu như tất cả các môn tôi đều đạt điểm tổng kết khá cao. Ba năm cấp ba, tôi đều là học sinh tiên tiến. Tên của tôi được tuyên dương trong các buổi chào cờ thứ hai đầu tuần, hay trong các kỳ sơ và tổng kết hàng năm. Là đoàn viên bốn tốt, đương nhiên tôi xứng đáng nằm trong danh sách được nhà trường làm hồ sơ đề nghị chọn học sinh đi học tập tại nước ngoài.

Đen cho tôi, Thầy U tôi không phải cán bộ, đảng viên gì. Trong làng có kẻ nhỏ mọn ghen ghét, lại có cái quyền sinh sát đã ngấm ngầm tìm đủ mọi cách loại tôi ra khỏi danh sách mà nhà trường dự kiến. Lời phê trong phiếu thẩm tra lý lịch trích ngang của tôi được ghi: “Gia đình chưa có ai từng tham gia Chống Mỹ Cứu Nước, nên để lại đi bộ đội”. Đơn giản thế thôi, tôi trượt vỏ chuối tất cả các trường đại học. Khỉ thật. Tôi chỉ được biết điều đó khi mọi sự trôi qua. Trở thành “việc đã rồi” mặc dù tôi hoàn toàn đủ điểm chuẩn đi học ở nước ngoài trong kỳ thi đại học năm 1972 đó.

(còn nữa)

Gocomay

(*)  Là loại dụng cụ đánh bắt cá có lưới gắn chì có cán đẩy di động xúc cá rất hiệu qủa.

___

>> Xem Phần 1 & 2 ở đây:

____________________________

674 – Quê tôi xứ Đoài mây trắng lắm! (2)

Gocque.jpg

Cụ Viễn (mẹ vợ của nhà nhiếp ảnh Vũ Đình Hồng và đạo diễn Nguyễn Như Ái) -Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn

Gò cỏ may (2)

(Tiếp theo)

Tôi sinh ra ở làng, lớn lên ở làng. Thầy tôi là thợ ảnh giỏi có thứ hạng trong làng nghề ở ngoài tỉnh. U tôi làm ruộng và dệt cửi. Chẳng nói cũng biết, việc nhà nông quanh năm không bao giờ hết. Từ lúc năm tuổi tôi đã biết chăn trâu, sáu tuổi biết cắt cỏ, bảy tuổi biết bắt cua, mò ốc, câu cá, bắt ếch câu nhái, đập châu chấu… đem về chế biến thành các món ăn thôn dã đơn sơ nhưng rất ngon lành, mà sau này dù có lúc được tham dự các đại tiệc cao lương mỹ vị đến đâu tôi cũng thấy không hơn được các món ăn nơi đồng quê ấy. Như món châu chấu kho khô với nước cà mà ăn với cơm gạo mới, nấu chín hơi khô chan nước rau muống vắt chanh thì ai mà chê cho được. Hay món chả nhái băm nhỏ với lá gừng tươi, viên lại đem rán vàng, rồi kho dim nước tương sốt thì tốn cơm lắm. Cái nước tương vô cùng ấn tượng do U tôi cất công phu bằng thứ đậu tương chính hiệu Bờ Re, cùng với mốc gạo nếp cái trồng ở đồng Cối Mèn và nước mưa rào giữa giời mùa tháng sáu. Cái tháng sáu âm lịch kỳ diệu cho làng quê tôi thứ nước mưa tinh khiết lại cho cả cái nắng, nóng như luộc nước đến “cua phải ngoi lên bờ”, để U tôi phơi mốc, ngả tương, làm thành loại đặc sản hồn quê rẻ tiền mà nhiều đạm để dành ăn quanh năm.

Suốt từ tháng ba tới tháng chín, cứ theo U tôi đi cắt cỏ. Sáng cắt cỏ, chiều chăn trâu. Tối bừa rơm, quạt thóc, hay giã gạo. Những ngày nghỉ hè là những ngày làm cật lực giúp gia đình suốt từ mờ sáng cho tới nửa đêm. Là con út, các anh, các chị lớn đi bộ đội, đi thoát ly hết. Tôi là lao động phụ duy nhất giúp U tôi chăm trâu hợp tác giao, chăn lợn lấy thịt giao nộp nghiã vụ nhà nước, vừa lấy phân giao tổ sản xuất. Lại đàn gà lấy trứng, lấy thịt. Thêm đàn ngỗng nữa. Trên mọi tấc đất của cánh đồng làng, không chỗ nào là tôi không thuộc. Này ốc đồng Sai vừa giòn, vừa thơm. Này trai đồng Bàn vừa bùi, vừa nhiều thịt. Này cải xanh vuờn chuối nổi tiếng vì nơi đây có thứ đất nâu đen màu của lớp tro than và mảnh gốm vụn hỗn hợp, phong hóa rất lâu đời từ nền một ngôi làng cũ, di chỉ của cư dân người Việt cổ. Do thành phần trong đất có nhiều khoáng tố Kali, nên cho làng tôi đặc sản cải bẹ, cải xanh mà không thứ cải ở đâu sánh được. Khi cải Vườn chuối nhú lên ngồng, cắt về, phơi tái, rửa sạch đem muối dưa, nén cả cây, thì luôn có màu vàng ươm nom hấp dẫn, ròn và thơm vô cùng. Cải Vuờn chuối có vụng muối một chút cũng không bao giờ khú. Mỗi khi mở vại dưa nén, lấy ra thái cho bữa ăn là mùi dưa cải thơm lừng quyến rũ, lan toả khắp năm gian nhà, ba gian bếp, thứ hương vị làm tứa nhiều nước chân răng.

Thời ở làng, tôi còn nhớ tên nhiều bạn chăn trâu cắt cỏ lắm. Họ có thể hơn, bằng, hay kém tuổi. Có thể thân nhau ý hợp tâm đầu hay ghét nhau tới mức cầm đòn gánh đuổi nhau, réo cả tên bố mẹ nhau lên mà chửi. Dù họ còn đang vất vả, đang ăn nên làm ra, hay đã an nhàn bên các cụ nơi chín suối. Nhưng với tôi, một ngày đã cắt cỏ, chăn trâu, chăn bò với nhau thì đều là bạn cả. Này Vinh Mùi; Sơn và Cường Thảo Bút; Cường và Quyết Hưng; Khung và Qui Hỷ. Xóm Rộc có Tuyết và Quyến Thảo Chất; Bé Ích; anh Ba câm; An và Đạt Tổng Tắc; Thịnh và Đức Khánh Bình; Hạnh Giai; Si và Tuấn Cơ; Vinh và Dần Huy; Chính và Tài Sinh Tương; Khánh Mười Trản. Mạn xóm trong có Nhật và Bản bò; Dũng Hà; Thăng ngọng; Vân dãi; Hải và Hùng ba Lai; Cường Vạn. Gần Văn Chỉ có Hạnh và Đức Cứ; Hưng và Giang Lồ. Duới xóm bốn, xóm năm còn có Đồng Hợp; Bằng Học; Hiển và Đạo Cuờng Qúi; Bích mẩu; Hạnh và Khả Chinh Huyến; ông Bề Bề, Luận Dược Ước; Xuân và Kim Triệu; Bảo và Trường Trúc Cân; Toản Thụy; Thìn Nhận và Ngọ Đen…, cả đám trâu bò cùng lũ trẻ nghịch ngợm tuổi thơ, lâu lắm rồi mà cũng khó quên nổi chúng. Mùa đông giá, mùa cày ải, chúng tôi xếp đất cày khô làm lò nhóm lửa cục rạ sưởi, nướng khoai ăn. Chăn trâu đồng A thì thân nhất có Vinh Mùi Hòe. Anh ta hơn tôi hai tuổi, dắt chú bò đực thiến lừng lững, lông màu vàng thẫm mượt óng, đẹp như ngựa xích thố. Trời rét, anh ta luôn bận áo trấn thủ, dáng cao lớn, hiền ít lời, tốt bụng nhưng cục tính. Mùa hè, chăn trâu đồng Bẫm thì có Xuân Triệu, Đồng Hợp, Dần Huy đều chăn những “đấng” trâu kềnh trắng (chẳng còn huý kỵ gì nữa) của Hợp tác xã. Còn “thím” trâu cái đen nhà Hạnh Thực Cứ thì nhỏ bé xấu xí nhưng nết ăn của nó thì đáng mến vô cùng. Cỏ non, cỏ già, cỏ uớt, cỏ khô … dù không ngon đến đâu nó cũng kỳ khu gặm một cách nhẫn nại chứ không một nhát đến tai hai nhát đến gáy như chú trâu kềnh đen khảnh ăn nhà tôi.

Mỗi khi cắt cỏ mà đi sau Tuyết Thảo Chất và Ngọ đen thì kể như gặp hạn lớn. Thằng bạn Ngọ Đen của tôi, nói the thé như con gái, người nhỏ thó lại cắt nhanh, dẻo mà khỏe vô cùng. Nó đầy gánh đi tểu rồi mà mình mới chưa được lưng quang, bực lắm chứ. Nhưng gần nó cũng học hỏi được nhiều mẹo vặt.

P1060905.JPG

Gặp lại bạn học-bạn cắt cỏ Ngọ Đen sau 35 năm (Từ trái qua phải: Gocomay; vợ chồng anh Viện; chú Cả Nghị; anh Cường Vạn; Ngọ Đen) – Tại tư gia nhà QF người Lai Xá Đinh Văn Viện ở TP HCM tháng 2 năm 2006.

Nếu đánh rủi cua đồng Sai, câu nhái đồng màu hay soi ếch ban đêm mà gặp Ái Mèo thì cũng chẳng khác gì cắt cỏ mà gặp Ngọ đen hay Tuyết Thảo. Đi câu rô cùng Tuấn Cơ, khi nó chán nó rủ mà không về thì cũng khó trụ. Chẳng nhiều lời, nó tương ngay cho nửa hòn gạch bìa xuống hố thính thì rô với trê có mà chạy bán sống bán chết ấy, chứ câu với kẹo cái gì được nữa.

Sáng sáng tôi ra đồng, bắt đầu từ cổng ngoài đi ra là đồng Mã Cả. Qua mương Rộc Đìa đi sang là đồng Bồ Cóc (bên trái) và đồng Cối Mèn (bên phải). Lên Vuờn Chuối, vòng cây bàng đi xuống là Bờ Re, theo bờ mương tới Dền Rắn rồi sang Mỏ Phượng. Leo qua gò Đấu dài, gò Đấu tròn là tới Vườn Dậy (Trần Vậy). Phía xa là cánh đồng Chằm chạy dài mãi tới gần ngã tư Canh. Quay về ngược về đồng Nhổn qua đường cái quan sang phía Bắc là cánh đồng A; đồng Đăm. Quay về lại là Đuôi Cá; Cửa Khâu; Trũng Khoai; Dinh Cơ. Sang lại bên này đường nhựa là Chùa Do, xuôi về qua cây bàng là Đình Lỗ; Đình Diệc. Qua cống Mũi Bút; Lờ rồi leo qua đường Cái mới là sang đồng Sai mênh mông với chuôm lớn, chuôm nhỏ, Ao Cả bịt bùng. Đồng Sai chính là cái rốn nước lớn của toàn vùng. Bươn qua đồng Gờn, vòng trạm bơm rồi về lại Cống Lều, Cây Rầy, qua sân kho rồi sang bên kia đường là Rần Đống. Men đường cái mới (nay là đường QL 32) là tới Sau Hàng. Vòng qua Trũng Trên xuống Trũng Dưới vắt sang Đìa Các, qua Công Trường, lên Đống Sành; Năm Cửa; Hố Gạch. Trở lại bên này đường quốc lộ, qua hồ Rộc; giếng Cửa Đình … về Mã Mọn. Lên qua Mả Tháp; Chùa Sai là tới đồng Hổi; Chùa Hống. Từ đồng Giang về lại là đồng Bồ Câu, xuôi xuống phía làng Thìa là đồng Con Chim. Theo bờ vùng qua đồng Đinh; đồng Bàn ngược mương Đầu Sâu là về lại Bẫm; Giải Phướn. Men bờ kênh Trại là tới Gò Chùa cửa nhà thờ họ Phạm Đại Tôn. Theo lũy tre làng xuôi mương Bẫm là tới Cánh gà; Mom con cá. Xuôi chếch phía Đông Nam, qua cây Sữa cổ thụ, lần bờ vùng bờ thửa đồng Ải là sang Cầu Mưỡu. Trở lại mương Cối Mèn về hướng làng là đồng Cây Miến. Qua gốc muỗm già cụ phó Nghị là về lại cổng làng rồi.

ap_20100110124138128.jpg

Cảnh bừa ruộng ở đồng Mom nhìn về phía Đông Nam cánh đồng làng – GCM chụp đầu năm 2006

Thế là tôi đã bươn vừa đủ một vòng qua mấy chục cánh đồng to nhỏ quanh làng thân thương của tôi. To có khi tới cả trăm mẫu như đồng Sai. Nhỏ chỉ dăm bảy sào hay vài ba mẫu như Đình Diệc; Bờ Re; Cây Miến… Lúc này, bóng nắng đã tròn dưới chân tôi rồi. Tôi bước đi, đi mãi mà tưởng chừng không bao giờ thoát ra khỏi cái bóng đen tròn sẫm, vĩnh cửu của chiếc nón (mũ) lá mà tôi luôn đội trên đầu. Những trưa hè, nắng tháng sáu. Không phải một lần tôi nhìn thấy thế. Cũng không phải một lần mà tôi có thể đi hết được tất cả mọi ngõ ngách của cánh đồng cao thấp, khấp khểnh gò trũng như thế. Những công việc hàng ngày của nhà nông, nhàn như bắt sâu, nhổ cỏ lạc, tưới rau, xới đỗ, vun khoai. Nặng như đánh gộc tre, cày vỡ, đập đất, bừa cạn, tát nước, gánh phân, phát bờ cuốc góc, cất vó đêm, đánh rủi hay nhổ mạ ruộng lầy. Thơ mộng như chăn trâu cắt cỏ, chăn ngỗng, câu nhái, bắt châu chấu muồm muỗm cào cào, kéo vó tôm vó tép. Hay các bữa vác vồ, vác cúc (cuốc) lẽo đẽo theo sau chú Hỷ tôi đi tảo mộ mỗi dịp Đông chí. Nay chú tôi không còn, nhưng những lời chú nhắc, mãi mãi tôi không quên:“Đứa nào lười nhác, sợ mỏi chân mà chẳng chịu theo tao thì khi tao chết, lấy ai chỉ cho chúng mày nhớ hết tất cả mồ mả các cụ rải rác khắp các cánh đồng. Rồi bỏ bễ, không chăm chút, gặp người tham, nay một chút, mai một chút, nó xà, nó xẻo mà đưa luỡi cày liếm hết mất nấm. Mất mồ mả tổ tiên thì chỉ có mà lụn bại, con cháu muôn đời không bao giờ ngóc đầu lên được đâu!” 

Không biết đã bao nhiêu lần, bóng tôi in trên đồng từ dài như con sào rồi co ngắn, vo lại, tròn hoảy dưới chân. Rồi lại vươn dài dần ra như con sào hay chả có bóng dáng gì rõ nét cả, chỉ còn tiếng rậm rịch của bước chân, chỉ tấm thân mờ ảo dật rờ lúc ẩn lúc hiện. Nhấp nhô, nhạt nhoà, chìm nghỉm trong sương, trong mưa, trong màn đêm không trăng sao trên các cánh đồng gập ghềnh quê tôi. Nhưng trưa hôm nay. Nắng lửa đổ rừng rực. Cái nắng tháng sáu. Cháy da sém thịt. Cả cánh đồng đang cày vỡ, mùi hương đất nồng nàn. Bóng tôi lại đang tròn. Tròn vành vạnh. Tôi cắm mặt, thở rốc, lặc lè quảy gánh cỏ nặng hơn cả trọng lượng thân mình, chúi đầu về cổng làng. Đổi từ bên phải sang trái, hết dọc, rồi xoay ngang. Cố lết, lết mãi, cũng tới được bóng đa đầu làng rợp mát rồi. Đặt uỵch gánh cỏ xuống chỗ đất bằng, tôi đánh bệt lên đám rễ đa nổi cuồn cuộn. Vài con trâu ngụp phì phì dưới ao, đuôi quật, vẩy vung nước cầu vồng. Con bò vàng nằm lim dim, quạt mo tai nhàn nhã, quai hàm nhai lại cỏ. Vài cô thôn nữ đi làm thủy lợi về, nới khăn vuông, xà cạp, ngồi, đứng, trò chuyện râm ran, vừa vung nón ngang đầu quạt lấy quạt để. Thấy mùi thơm quả đa chín đâu đây, thèm quá, tôi trèo lên một cành la sát mặt ao Chùa vạch lá, chọn những quả đa chín đỏ mọng, chưa sứt sẹo vì bị côn trùng chui vào đẻ trứng bẻ ra ăn vừa ngọt, vừa bùi. Những lúc mệt, đói lả, lót tạm dăm bảy qủa ngọt lành như thế, cũng cảm thấy lại sức, ruột đỡ cồn cào. Trước khi về nhà ăn cơm trưa, tôi lội xuống bậc gạch giếng nước, tay khoả lớp bèo ong dãn ra, vục chiếc nón lá già, khệ nệ bê lên rõ một nón nước đầy trong vắt. Vừa tợp vài ngụm nước mát, rồi rửa mặt. Tỉnh cả người. Lại gánh cỏ kĩu kịt về làng.

reuters-vietnam-rice-farmer.jpg

Trên cánh đồng làng thân yêu, từng ngõ ngách đầu gàu, đầu sâu. Bờ cao bờ thấp. Đồng màu đồng trũng. Chỗ nào có nhiều cỏ dây trắng, dây tía, cỏ xước, cỏ gà, cỏ mần trầu, cỏ gấu, cỏ mật. Tôi đều thuộc làu. Mỗi khi đang cắt cỏ mà được mấy bà thợ cấy vẫy lại nhờ xén bớt ngọn mạ trước khi đem cấy là vui như đi câu mà gặp cá diếc đi ăn theo đàn vậy. Ngọn mạ trộn với cỏ dây đã rửa sạch mà đóng gánh thì dôi và rất chóng đầy mà trâu bò cũng rễ ăn hơn. Gò đống nào, mùa nào có cỏ dầy, cỏ gianh, cỏ lông may già, tôi dùng cọc trâu kẹp, xoắn, vặn chặt từng đám mà nhổ bật gốc lên, đập sạch đất phơi khô, đem về đun đượm và thơm vô cùng. Mùa mưa thì xuống Đồng Sai hay Đồng Đinh cắt cỏ năn, rạy, lác, cỏ dường dường, thài lài, cỏ chân vịt, cỏ bợ, cỏ dừa, cỏ bẹ … những loại cỏ ưa nước. Mùa mưa xuân thì ra đồng cày ải hái rau lồng khúc về làm bánh khúc. Những trận mưa đầu hạ, cũng là thời khắc rau má, rau sam, chua me, rau rền cơm, rau muối, rau rệu, rau khoai lang, nhọ nồi, các thứ rau cũng là những thuốc Nam đồng nội, các đặc sản tự nhiên ấy là non và ngon nhất. Tôi biết rõ cả trai cánh, trai thịt, ốc vặn, ốc đá, ốc bươu… tháng nào thì sinh sản, lúc nào bắt về luộc hay nấu canh giấm chua là ngon nhất. Cua ở bờ ruộng nào, thửa ruộng nào, mùa nào thì béo và nhiều gạch. Trên các ruộng lúa Mùa, nước đầy, lúc lúa sắp trổ đòng đòng thì đem khoai sọ nướng thơm, bóc vỏ, nhào cám rang rây mịn, trộn mẻ lèn giã cho nhuyễn mà làm mồi câu cá rô đồng. Rô ron đi kiếm mồi theo đàn, câu một chốc là hàng vốc, đem về bấm bụng bỏ ruột, đem kho tương gừng hay rán giòn chấm nước mắm hạt tiêu chanh thì cứ gọi là thủng nồi trôi rế.

Tháng tám, tháng chín mùa trăng là đúng mùa câu thả. Khi bóng đêm vừa trùm xuống, tôi bí mật mang nắm cần câu được làm bằng thứ tay tre (trúc) đực già mà dẻo cắm dọc bờ kênh, ven các bờ hồ, bờ ao. Phải chọn loại dây dù hay cuớc thật dai, chỉ vừa đầy gang tay thôi. Lưỡi câu bén, ngạnh sắc, móc khéo vào thăn lưng, ngay dưới lớp da mỏng những chú săn sắt, rô ron hay cá trạch nhỏ. Phải kén con nào thật khoẻ, căn tầm cước vừa đủ để chúng bơi lượn là là sát mặt nước, tung tăng rất hấp dẫn để dử mồi câu cá chuối, cá sộp, cá chày… các loại cá ăn nổi.

Nhớ cái đận  cuối mùa câu, một hôm, gió mùa đột ngột tràn về, lúc bốn giờ sáng, tôi đi thu gom cần câu thả đêm hồ sau Lái về, có lần tôi suýt vấp phải “xác nguời chết” vắt ngang đường. Hóa ra bà Huyền, người bác dâu trưởng chi hai họ Phạm nhà tôi, nằm bất động từ bao giờ. Người bác bê bết bùn, nón lá, khăn vuông cũng thế, ướt sũng. Tôi ném bỏ cả cá, cả cần lao vào vực bác dậy mà không tài nào nhấc nổi. Bác cứ nằm bất động, từ lúc nào, kiệt quệ, thi thoảng lại thều thào, khản đặc: “Cái…thằng…Lợi…Ngải,…Dung…Đàm,…Khương…lồ……chúng…..mày…..giết,…….giết…co…. con…tao…”

Đó cũng là một câu chuyện thương tâm, dai dẳng khủng khiếp, một thời. Giống như mọi làng quê, làng tôi cũng có những bà chua ngoa, xắn váy chõ mồm chửi bâng quơ xéo qua rào sang nhà hàng xóm, tục tằn không bút nào tả được,”chửi mất gà”. Nhưng làng tôi có thêm chuyện bác Huyền, người mẹ liệt sỹ, do quá thương đứa con trai yêu qúi ra đi không về, bà sinh ra oán ghét tất cả những ai bà cho là đã đẩy con bà tới chỗ chết.

Bà Huyền cũng chạc tuổi U tôi hay hơn chút ít. Bà sinh ra ở làng Vòng. Thời tuổi ngọc, cô con gái “cốm Vòng” là một hoa khôi đẹp nổi tiếng khắp Phủ Hoài đức khi xưa. Bà về làm dâu làng tôi vào một gia đình rất khá giả, nhà cửa vườn tược rộng rãi lại khuất nẻo sát luỹ tre làng. Trong kháng chiến chống Pháp nhiều cán bộ, du kích người làng thường lui tới ăn ở dầm dề “nhẵn đũa nhẵn bát” ẩn náu một cách an toàn tránh sự truy lùng của Pháp. Bà rất đông con, nhưng chỉ có anh Minh, anh Phạm Ngọc Minh, chàng trai trẻ cao lớn, trắng trẻo lại rất mực hiền ngoan, như thần tượng của biết bao thôn nữ, là được bà đặt nhiều hy vọng nhất. Ngoài việc nổi tiếng là một tay chơi diều sáo, bẫy và nuôi chim cu, chim ngói có hạng. Anh còn là một danh thủ tiền vệ xuất sắc trong đội tuyển bóng đá chân đất “bách chiến bách thắng”  nổi tiếng toàn vùng.

Đợt tổng động viên năm 1967-1968, anh Minh phải tòng chinh, vừa chân ướt chân ráo vào chiến trường B, anh đã hy sinh. Sự mất mát qúa nhanh, qúa bất ngờ ập đến với bà Huyền là vô lý, bất công và qúa sức chịu đựng, khiến bà suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần… nên hằng đêm bất kể nắng mưa, gió rét, không ai có thể cản được người mẹ già đau khổ cùng cực ấy, cứ chống gậy lê dọc đi khắp đường làng – từ nhà bà (ở gần đuôi cá) tới cổng ngõ các nhà (ở tận gần đầu cá, mang cá) mà bà cho là thủ phạm gây nên cái chết của con bà. Vừa chửi bới, vừa nguyền rủa thậm tệ cả lò, cả ổ, gọi đích danh tên các vị chủ tịch, xã đội trưởng, công an và chánh văn phòng ủy ban xã … khi trước đã được bà che trở cứu mạng, những người bị bà kết tội “ăn cháo đái bát”  “đã giết con bà”…. Nhưng thần diệu thay, cũng chính nhờ tiếng chửỉ rủa độc địa, dai đỉa ấy mà ghế của các vị lãnh đạo chủ chốt ở địa phương lại cứ chắc như bàn thạch, cho dù con cái những “Hương Cống” khả kính ấy chả phải nếm mùi bộ đội. Chả bao giờ biết đến thế nào là gian khổ, đói khát, là chết chóc nơi chiến trường.

Mấy năm gần đây, khi thấy nhiều người khen bộ phim “Người vác tù và hàng Tổng”, phác họa chân dung một cán bộ trưởng thôn (như chức lý trưởng thời xưa). Tôi cũng cố tìm xem nó hay ở chỗ nào?. Về tay nghề của đạo diễn, tôi thấy Phí Tiến Sơn hóm mà khá chắc tay, xứng đáng vào tầm cỡ có học, có tài. Tôi không biết nhiều về con người Sơn, chỉ nghe họa sỹ Thẩm Đức Tụ nói, trước khi đi học quay phim ở Đông Đức, Sơn rất có khiếu nghệ thuật. Từ bé đã sớm nổi tiếng trong lớp “Trẻ em vẽ” ở Cung Văn hoá Thiếu nhi Hà nội. Sau này lại nghe tin Sơn cũng gốc Lai Xá. Nhưng do né tránh? Hay ít vốn sống làng quê? mà trong cái phim nói về người cán bộ nông thôn, đề tài hay vậy mà lại thiếu mất cái chi tiết, cái màn chửi (mà hoá ra phù hộ) đám “Người vác tù và hàng Tổng”, lạ và độc đáo như thế thì cũng là chuyện đáng tiếc lắm thay. (chọc ngoáy người đồng nghiệp cùng làng tý cho vui thôi nhe, he he…)

Mùa câu thả qua đi, khi gió heo may tràn về thì rang thính cho thơm, đào giun đồng cho nhiều mà đi câu cá riếc và cá loại cá ăn chìm. Tháng chạp giáp tết ta, đồng Sai cạn nước, cá trên đồng rút hết xuống khu rốn chuôm trũng thì mọi nhà có chuôm bàn rủ nhau mang cọc tre và ván gỗ be bờ, làm lều canh tại chỗ mà đêm ngày đổi phiên nhau tát chuôm, chia cá ăn tết. Có năm được mùa, cá nheo béo vàng to như bắp đùi, đầy cả gánh, mỗi chuôm thu hàng tạ, ăn cả mùa tết đâu có hết, lại muối cá, làm chượp, phơi khô ăn dần trong năm. Phải nói nhà nào có hoa lợi từ cổ phần cá ở chuôm đồng Sai cũng cảm thấy sung mãn nhờ những mùa tát chuôm háo hức, vui như trẩy hội ấy. Cá trắm, cá chép, cá qủa cỡ bự đồng Sai đem sắt khoanh lớn mà lót củ giềng già, hầm tương bằng củi gộc tre khô và trấu … để trang điểm cho mâm cỗ sang ngày tết thì phong lưu nhất mực rồi còn gì!

Mùa xuân chín. Rồi hè sang, những trận mưa rào vào tháng tư âm, lấy nước cho nông dân làm mạ Mùa, tôi mang vợt mang rổ ra đồng Bẫm, túi chứa nước mưa trong làng tuôn ra, đi hớt cá Trạch quấn nhau vật đẻ dưới ruộng nước đầy.

34133668.jpg

Xé màn mưa nổi bong bóng, đôi bàn tay dầm nước mưa đã răn héo, vuốt những hạt mưa nặng trịch quất chéo vào mặt rát ràn rạt. Lần theo vệt nước chảy tràn trề, rượt bắt các chú cá rô gụ đen chũi đang rạch ngược lách lên các bờ cao. Tôi lần mò rờ rẫm quanh các thân khoai ngứa ngập nước dưới rệ ao, mương thoát nước mưa từ làng ra đồng tìm ổ trứng cà cuống vừa đẻ, bắt cà cuống đực đem về nướng và lấy ngòi cay chế với nước mắm cá cơm, búng chút hạt tiêu, vắt chanh làm thành món nước chấm để ăn với bún rối hay bánh cuốn nóng chợ Trôi thì chả có thứ đặc sản bánh cuốn nào ngoài tỉnh thành mà sánh nổi.

Những hôm mưa dầm, không ra đồng được, U tôi hay rủ bà Ngọ Đầy ngâm gạo xay bột làm bánh đúc. Chẳng phải dân hàng chợ mà U tôi chế biến món bánh đúc lạc cũng ngon có tiếng. Gạo tẻ ngâm nước vôi vừa tỷ lệ, xay bột thật nhuyễn, lọc kỹ, bỏ vào dúm muối, một chút hàn the thôi. Trước khi bắc lên đun thì phải tôi nồi cho kỹ bằng mỡ chài thì bánh mới thơm và dóc cháy. Lúc quấy bột phải luôn tay, đun đều lửa, rồi cho lạc nhân đã đồ chín đãi sạch vỏ. Khi bánh vừa chín tới thì lót lá chuối tươi đổ ra mẹt. Chờ bánh đúc se mặt cắt từng miếng, bẻ chấm ăn với thứ nước tương dầm chút ớt qủa khô cứ gọi là giòn ngọt, hơi cay nồng, lại ngầy ngậy bùi bùi … Món bánh đúc cắt nhỏ bằng đốt ngón tay mà chan canh riêu ốc, riêu cua nóng thì tuyệt hảo. Còn cháy bánh đúc nóng lại là món nghiền nhất của tôi, nó ròn, dai, thơm mà đậm đà! Chả có thứ bánh đa nào có thể ăn đứt được?

ap_20090714012249601.jpg

Dáng bà cụ này giống hệt hình bóng của U tôi lúc còn sống (Hình minh hoạ)

Thương U tôi vất vả, cực nhọc quanh năm đầu tắt mặt tối, tôi phải lăn vào giúp mẹ tới sụn cả lưng mà không than vãn, kêu ca. Vẫn ham học. Bởi cứ nghe bà nói: “cá không ăn muối cá ươn, người không ăn nhời (chữ) thì suốt đời bán mặt cho đất bán lưng cho giời thôi con ạ!”. Cứ nghĩ đến cái thiệt, U tôi, không có chữ, lưng còng gập, thương tích đầy người, cả đời lam lũ mà chẳng bao giờ ngóc đầu lên được, lại rùng mình.

Tôi cố gắng học để khỏi chôn vùi tương lai nơi chốn ao tù nước đọng nơi xứ cỏ lông may khốn khổ này.

(còn nữa)

Gocomay

______________________

673 – Quê tôi xứ Đoài mây trắng lắm! (1)

1091664053_18d6847e75_o

Có nhiều bạn thân sơ của tôi cứ thắc mắc cái tên Gocomay (Gò cỏ may) của chủ blog có ý nghiã gì? Vì không hiểu được ngọn nguồn của cái tên ấy nên có người còn nhầm với Hoa cỏ may, Gốc cỏ may, Góc cỏ may… một cách tùm lum. Sự nhầm ấy không phải lúc nào cũng gây ra sự khó chịu hay bực mình. Trái lại nhờ có sự nhầm lẫn mà chủ blog Gocomay còn có thêm những người bạn rất chí tình. Rồi trở nên thân thiết vô cùng. Cho dù chưa bao giờ giáp mặt.

Thú thật từ ngày dính với cái tang bờ lốc bờ leo này, vui, háo hức, bận rộn và có khi còn có cả những hệ luỵ không đáng có nữa. Thấy có người mở web hay blog còn ra cả tuyên ngôn này nọ nghe ghê gớm qúa. Còn mình chỉ nghĩ đó là cõi riêng của mình, ai dỗi hơi mà xía vào làm gì. Nhưng sự thể không toàn toàn như vậy, khi blog cá nhân mà để mở, bất cứ ai cũng có thể vào coi. Chả nhẽ cách bày tỏ trong blog cá nhân cũng cứ phải chỉn chu (máy móc) như báo đài của đảng và nhà nước. Như thế có khác chi trong vườn hoa chỉ tinh trồng mỗi loại hoa, như cúc vạn thọ chẳng hạn? Văn là người, sự đóng góp của các blogger trong vườn hoa chữ nghiã đa hương sắc là vô cùng quan trọng và không ai có thể phủ nhận. Sự giao lưu học hỏi giữa những cây bút (nhà văn nhà báo chuyên nghiệp) và những cây viết tay ngang, các blogger nghiệp dư là vô cùng cần thiết và qúi giá. Nó sẽ làm giàu có thêm không chỉ kinh nghiệm mà cả chất liệu, vốn sống để cùng tiến tới mục tiêu mở mang cái vườn chữ nghiã qúi báu của dân tộc mình.

Với tiêu chí ấy chủ blog xin gửi tới bà con quê hương của GCM nói riêng cùng thân hữu ở mọi nơi nói chung bài viết (gọi là hồi ức, hay hồi ký gì cũng được) đã khởi viết cách đây ngót 6 năm. Nay chỉnh sửa lại vài số liệu cho phù hợp. Gọi là chút lưu bút kỷ niệm về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đang trong qúa trình dâu bể chuyển đổi từ làng lên phố. Nay bạn bè cùng lứa với GCM vài chục nhân mạng kẻ còn người mất. Với ngót chục xuất, dù chết trận hay chết bệnh thì cũng là đã khuất. Cầu mong cho họ luôn được an nhàn nơi Phật quốc. Cầu cho những người đang sống luôn an lạc và hạnh phúc!

P1060851.JPG

Gocomay và anh Diễm người làng Phúc Lý (làng bên)

Gò cỏ may (1)

(Thân tặng những con dân Lai xá còn nặng lòng với quê hương!)

Ốc đồng Sai

Trai đồng Bàn

Lang Đình lỗ

Đỗ Bờ re

Mè ao Rộc

             (Ca dao cổ làng Lai)  

Khu gò đống tự nhiên nằm giữa vùng đầm lầy của xứ Đoài mây trắng ấy từ bao lâu rồi?

Tương truyền, đây là xứ sở chỉ loài cỏ lông may ngự trị. Rồi mấy căn nhà lá cuả dân tứ chiếng từ đâu tới. Đám người tha phương tứ xứ trôi dạt về nơi gò đống mò cua bắt ốc qua ngày…

Vào năm Lý Chiêu Hoàng, vợ Trần Cảnh không sinh nở được. Trần Thủ Độ lo cho cơ nghiệp nhà Trần mới dựng không có người kế nghiệp đã bằng thế lực ép vợ An Sinh Vương Trần Liễu, đang có mang, cho người em ruột đang trị vì. Trần Liễu mang hận. Một dịp về Lai Xá, thấy cuộc đất tựa con cá chép lớn như đang nổi lên trong đầm nước mênh mông, Liễu xem là đất có thể dụng binh bèn kéo quân từ Thăng long về, trụ lại đó muốn lập kế lâu dài chống lại Trần Thủ Độ.

Lai Xá thay da đổi thịt từ đấy. Với chủ tâm của Liễu, nơi gò đống hoang toàng xưa, giờ đài cao, đồn lũy và con người quần tụ, hình thành một quần cư mới.

Cuộc “cuộc nồi da sáo thịt” giữa Trần Liễu và Trần Thủ Độ chưa phân thắng bại thì đạo quân viễn chinh hùng mạnh hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn từ phương Bắc tràn tới xâm lấn biên ải. Trước sự tồn vong của nhà Trần, của dân tộc, anh em nhà Trần tạm hoà hoãn để lo việc chống giặc ngoại xâm. Trần Liễu tự giải giáp quân binh về Thăng long thần phục triều đình.

Mặc dù vậy An Sinh Vương vẫn chưa quên thù xưa. Trước lúc lâm chung cho gọi Quốc Tuấn tới, dặn con phải rửa mối hận cho mình. Quốc Tuấn thương yêu cha nhất mực, hứa sẽ tuân theo lời dặn cuả người. Liễu mất, Quốc Tuấn chưa báo hiếu được cho cha thì cả đời ông ba lần giặc Mông cổ kéo sang giầy xéo non sông. Trần Quốc Tuấn lấy trọng trách với nước làm đầu, gạt bỏ tình riêng, ba lần giúp vua tôi nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông hung tàn trở thành đại vương Trần Hưng Đạo mãi mãi được ghi vào sử sách.

Lại nói về Trần Liễu, những năm cuối đời, ông thoát tục về chùa Sai, ngôi chùa lâu đời trên cánh đồng làng Lai tu, ẩn. Ông sống thanh tao, kê đơn bốc thuốc làm phúc và giúp dân làng ngăn chặn được nhiều dịch bệnh đang hoành hành khắp cả vùng rộng lớn châu thổ sông Hồng thời bấy giờ. Sau khi ông qua đời, dân Lai xá ghi nhớ công đức vun tạo và cứu rỗi mảnh đất làng, đã cho hưng công xây ngôi đình lớn giữa làng làm nơi thờ đức thánh An Sinh Vương Trần Liễu, gọi nôm là đình Đụn. Các bậc tiên lão trong làng, truyền cho muôn đời con cháu lấy ngày đầu tiên ngài đặt chân tới làng, nhằm đúng rằm tháng hai âm lịch hàng năm là ngày lễ tưởng niệm, ngày Hội cuả làng. Lệ làng từ đó, kiêng húy kỵ nghiêm ngặt – phàm bất cứ từ nào liên quan tới ngài thì đều phải tránh! Chữ Liễu phải gọi chệch thành Lão, không ai được đặt cho con cháu mới sinh tên là Liễu hay Lão.

P1060849.JPG

Chùa Sai làng Lai Xá – Nơi An Sinh Vương Trần Liễu đã tu ở đây

Chuyện kể rằng, sinh thời ngài có con chiến mã yêu qúi lông màu tuyết hồng. Khi ngài mất dân làng tỏ lòng kính trọng, mọi nhà không nuôi trâu trắng nữa vì có màu trùng với màu lông con ngựa của đức thánh. Ngay cả các chữ “hồng” (màu da chiến mã) phải gọi chệch thành hường. Lại “cái cuốc” tuởng như chẳng liên hệ gì tới húy kỵ nhưng vì phát âm cuả nó giống chữ Quốc là tên đệm của đức thánh Trần cũng phải đổi thành “cái cúc” v. v…

*

*           *

Lai Xá tiếng Hán có nghĩa “cỏ may”. Thế đất qúi “hình con cá chép” trồi  lên giữa vùng đồng nước rộng lớn như một đồn lũy tự nhiên, rất tiện cho phòng ngự. Lại thêm lớp lớp hào luỹ, ao đầm ken dầy ôm kín lấy khu dân cư. Làng có hai cổng. Cổng Ngoài nhìn ra hướng chính Đông, còn Cổng Trong quay về hướng chính Tây. Nối hai cổng bằng con đường lớn ngoằn nghèo, lát gạch Bát tràng xếp nghiêng, có bốn điếm tuần canh, chia đều trên mỗi chặng. Mỗi khi có động, hai cổng làng đóng chặt, các điếm canh nổi hiệu trống mõ, trai đinh trong làng vũ trang, gậy gộc cung nỏ, giáo mác chiếm giữ các điểm xung yếu và trấn chặt hai đầu cổng làng thì kẻ lạ, giặc giã bên ngoài không thể xâm nhập được. Đất làng thế vậy nên phải chăng con người tại đó cũng thiên về võ biền cơ bắp. Lai Xá trước kia vài trăm năm không có một ai đỗ đạt cao, dẫu là vùng đất cung cấp người, của cho bao cuộc chống ngoại xâm qua nhiều thăng trầm biến loạn. Có lẽ ấm ức nỗi ấy, hòng mong đất làng phát tích về đường văn, các cụ bèn cho xây Văn chỉ, nằm chếch không xa phía tả thanh long ngôi đình Đụn giữa làng. Đầu cổng ngoài, nơi nhìn về Thăng Long, phía đối diện cho xây bức bình phong khá lớn chắn gió hàn, ngay bên cạnh gốc đa và giếng nước. Kế cận bức bình phong là bệ thờ đài nghiên, lại đào ao “chùa” tụ thuỷ. Ao hình nghiên mực ôm bọc lấy cây đa và toàn bộ di tích, trông rất ngoạn mục. Chếch mé trái Cổng Ngoài, là con đường từ làng ra Kinh kỳ, tạo hình dáng hay nét phác của bút lông mềm mại. Ngã ba đầu đường lại có “ông chó đá” ngồi chễm chệ uy nghiêm nhìn dọc theo con đuờng chấn yểm khí tà. Mũi bút (bút lông) thì vươn về phía Thăng long ngàn năm văn hiến. Tất cả hàm ý khuyến học, chú ý việc văn, mong con cháu sau này, không chỉ trọng việc võ, con đường “văn” tiến thẳng về Kinh Đô?!

ap_20100119104750251.jpg

Di tích đài nghiên ở cổng làng bây giờ (2006) chỉ còn lại mỗi bát hương đá nằm lăn lóc ven đường như thế này…

Không biết có phải nhờ tấm lòng thành, mong ước qua việc trên đã cảm được cả đất trời? mà con đường học vấn của Lai Xá cũng đã có những tiến triển rõ nét. Như thời Pháp thuộc, danh nhân văn hóa, trí thức tầm cỡ Quốc gia thời đó sinh ra từ gò cỏ may Lai xá phải kể đến danh hoạ nổi tiếng Nam Sơn, một nguời đồng sáng lập nên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cái nôi của nền hội họa đương đại VN hôm nay.

Lứa chúng tôi, mặc dù sống tại làng thật nhưng chưa bao giờ nghe thấy cái tên Nam Sơn xa lạ này. Vào năm 1982 ấy, khi đi quay bộ phim “tranh sơn mài” cho đạo diễn – NSND Lương Đức, tôi có tới bảo tàng Mỹ thuật ở sau Giám, cũng tới tận nhà các họa sỹ sơn mài nổi tiếng như Hoàng Tích Trù, Lê Quốc Lộc và Trần Văn Cẩn. Tại nhà riêng của cụ Cẩn, phố Nguyễn Thượng Hiền, cố họa sỹ đã có tâm sự với tôi: “đúng là không thầy đố mày làm nên thật anh ạ! Nếu không có các bậc thầy hết lòng vì nghề vì trò như danh họa Nam Sơn chẳng hạn thì làm sao tôi có cái vinh hạnh được liệt kê vào bộ tứ: nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn, để thiên hạ suy tôn và để các anh quay phim về tranh của anh em chúng tôi thế này?”.

Trong số những trí thức lớn tham gia Chính phủ Lâm thời từ rất sớm, có giáo sư Nguyễn Văn Huyên, người làng Lai, lớp trí thức Tây học đầu tiên cuả Việt nam ta nhận bằng tiến sĩ về Dân tộc học xuất sắc tại đại học Sorborne bên Pháp từ năm 26 tuổi. Chàng thanh niên gốc gác nghèo khó Nguyễn Văn Huyên từ chối mọi ưu đãi của nước Pháp để về lại quê hương dạy học và nghiên cứu khoa học. Những công trình đồ sộ của ông về nhân chủng và dân tộc học xuất bản bằng tiếng Pháp từ hơn 60 năm trước, gần đây được dịch ra Việt ngữ còn mang tính cập nhật rất cao trong đời sống ngày hôm nay. Từ năm 1946, ông Huyên làm bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục – sau này là Bộ Giáo dục suốt ngót 30 năm. Là người được đánh giá cao trong công cuộc “diệt giặc dốt” do Hồ Chủ tịch phát động sau Cách Mạng Tháng Tám.

Cũng ở Lai Xá, trong đám thảo dân, tới cuối thế kỷ 19, có ông Nguyễn Đình Khánh được các nhà sử học đánh giá là một trong ba người đầu tiên có công sớm đưa nghề Nhiếp ảnh vào truyền bá rộng rãi ở nước ta. Ông Đình Khánh mở hiệu ảnh Khánh Ký từ năm 1892 ở chợ Hàng Da, chỗ rạp Hồng Hà bây giờ. Ông là bậc tiền bối đã đào tạo được một đội ngũ thợ ảnh chuyên môn tài giỏi có tới hàng trăm người từ làng mà lan tỏa khắp nước. Những năm đầu thế kỷ 20, chỉ tính riêng người làng Lai, tại Hà nội có tới 33 hiệu ảnh; Sài gòn 34 hiệu. Ông Khánh Ký còn Tây du Pháp Quốc mở hiệu ảnh Khánh Ký tại kinh đô ánh sáng Paris. Những năm đầu sinh sống tại Pháp, anh Ba – Nguyễn Ái Quốc, người sau nay khai sinh ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà cũng đã học nghề ảnh tại địa chỉ này.

Cụ Khánh Ký tham gia tích cực phong trào Đông Kinh Nghiã Thục, là bạn với cụ Phan Chu Trinh từ trong nước. Tại Pháp, nơi đất khách quê người, gặp lại cố nhân, các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Đình Khánh như là bộ ba “Xe – Pháo – Mã” (?), vừa là bạn bè làm ăn, vừa là bạn tranh đấu nhằm mục đích canh tân quang phục quê hương.

Cụ Khánh Ký không nhiều chữ, không đỗ đạt, không tài hùng biện lẫy lừng như hai cụ Phan. Nhưng dưới con mắt đánh giá cuả Pháp thì con người cụ có lẽ cũng nguy hiểm cho sự trở lại cuả họ tại Đông Dương sau đệ nhị thế chiến nên Thực dân Pháp đã ra tay, năm 1946 cho người ám toán cụ Khánh.

Cái tin cụ Khánh bị nguời ta hãm hại ấy thực ra cũng chỉ là lời xì xầm to nhỏ của nhiều người trong làng mà tôi từng được nghe. Chứ thực hư thế nào thì chưa có tài liệu chính thống nào kiểm chứng. Mãi sau này, vào mùa hè năm 1979, khi tôi đi tìm tài liệu quay bộ phim Tài liệu “Quê hương Bác Hồ” cùng với nhà quay phim kiêm đạo diễn nổi tiếng Nguyễn như Ái, tôi có buổi trò chuyện hiếm hoi với nhà nhiếp ảnh Vũ đình Hồng, xuất thân từ Lai xá, người có vinh dự nhiều năm sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, để chụp ảnh tư liệu về Bác, tôi vẫn gọi “chú Toan” như tên thời còn sống ở làng, ông lấy bà dì họ tôi, dì Niệm, nhà Hà nội ở số 3 Đường Trần Phú. Lần đó chú Toan ghé tai tôi nói nhỏ: “Thời chân ướt chân ráo Bác tới Pháp, từ hồi trước đệ nhất thế chiến ấy, để có thêm thu nhập Bác cũng từng làm nghề chấm ảnh như nghề của bố cháu ấy, ở hiệu ảnh cụ Khánh Ký làng ta ở Paris… … tới đầu năm 1946, Bác sang Pháp thì được tin sét đánh, cụ Khánh đã mất, người thầy dạy nghề ảnh, người ân nhân cũ không còn. Trước nấm mồ còn tươi màu đất, Bác không cầm được nước mắt, ngả mũ cúi khá lâu, như hứa hẹn với cụ Khánh và các bậc tiền nhân hết lòng vì độc lập tự do của tổ quốc, dân tộc để không làm hổ thẹn với anh linh các cụ nơi chín suối!” 

02_8.jpg

Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp hương viếng cụ Nguyễn Đình Khánh ở Paris -1946 – Nguồn: vapa.org.vn

Lời nói và những việc làm như thế cuả cụ Hồ, đã có tác động tích cực lôi kéo biết bao trí thức lớn Việt Kiều trở về đóng góp cho công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước những năm sau này.

Vào một mùa hè, có lẽ đã cách bây giờ tới 20 năm có lẻ, trong dịp đi làm phim Video truyền thống 45 năm cho trường Đại học Giao Thông Vận Tải Hà nội, khi vào TP Hồ Chí Minh quay phim, tôi có ghé thăm ngôi nhà thờ do người làng Lai sinh sống tại Sài Gòn lập ra mang tên “Hội Tương Tế Lai xá” ở bên kia cầu Bông quận Nhất. Tôi nhìn thấy trên ban thờ có một lọ đựng tro cốt có dòng chữ:

Cụ

Nguyễn Đình Khánh tức Khánh Ký

Sinh: Năm Giáp Tuất-1874

mất: Năm Bính Tuất-1946….

Bên cạnh còn có di ảnh cụ Khánh, loang lổ, mối xông. Ngước mắt lên nóc nhà, thấy rui mè cái mục, cái gãy, ngói xô dạt nhiều chỗ. Tôi hỏi bà già trông coi: “làm sao mà lại có các thứ này?”, trả lời: “người con trai cụ là Nguyễn Văn Quang, hiện còn sống bên Paris. Ông ấy phải vất vả lắm mới làm xong được các thủ tục khắt khe ở cả bên đó lẫn bên nhà mới đem được cốt cụ tổ nghề cuả làng về để nơi này!…”. Tôi cẩn trọng chỉ cho bà coi nhà chỗ các vết mối đang loang nhanh. Bà thanh minh, bà người làng thật, nhưng chỉ là người tới ở nhờ, nên không có tự quyết gì ở đây được cả. Tôi quay sang nói với ông Chương Huyền, bác họ, người đưa tôi tới đây: ” cháu muốn đưa ảnh về để nhờ anh Trú nhà ta chụp và chấm sửa lại, kẻo cứ đà này thì chả mấy bữa mà tiêu mất hết thôi”. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của ông bác họ, tôi mang di ảnh cụ Khánh về nhà. Về hiệu ảnh Ngọc Chương, số nhà 20 B phố Trần Quang Khải, thành phố Hồ Chí Minh vào một chiều mưa dông nhiệt đới mịt mù, mùa thu năm Canh Ngọ – 1990.

1274584052_01.jpg

Di ảnh Cụ Nguyễn Đình Khánh (Khánh Ký) 1874-1946

Trường hợp danh họa Nam Sơn tên thực là Nguyễn Vạn Thọ người làng Lai đã rõ. Cũng có những danh nhân khác ở thời tao loạn do cuộc sống phải trôi dạt mà biệt tích cho tới giờ mới hiển lộ chắc không hiếm. Như hoàn cảnh của nhà đạo diễn điện ảnh, nghệ sỹ nhân dân nổi tiếng Bạch Diệp chẳng hạn. Bà tên là Tâm. Nguyễn thị Thanh Tâm. Bà có nguyên quán cùng làng với tôi. Nhưng vào năm 1973, khi tôi vào học quay phim tại Trường điện ảnh VN thì các bạn cùng lớp, nghe thấy tôi khoe thế lại chế diễu: “đồ nhận vơ, thấy người sang bắt quàng làm họ”. Tôi cãi hăng, họ chỉ ngay bằng chứng là ông Thìn vừa là người bảo vệ, tuy chữ nghĩa nguệch ngoạc nhưng khá quan trọng vì ông là “đảng viên có thành phần lý lịch cơ bản” được đưa về trường làm việc sau đợt bà Bạch Diệp về “quê quán thị xã Hải Dương” làm bộ phim tốt nghiệp khoá học Đạo diễn điện ảnh. Phim mang tên: “Hải Dương quê tôi”. Trong phim có dựng một cảnh phải sử lý đạo cụ có khói lửa. Do sự bất cẩn cuả nguời phụ trách khói lửa nên ông Thìn, một diễn viên quần chúng tại địa phương, bị kíp mìn tiện đứt phăng cánh tay bên phải tận sát nách. Nhà trường phải chạy chữa, bồi thường vết thương cho ông Thìn khá chu tất nhưng phía đương sự vẫn “bắt đền” vì một cánh tay cuả ông ta vĩnh viễn không bao giờ mọc lại được như cũ nữa. Kết cục nhà trường phải chấp nhận cái ông “thương binh” bất đắc dĩ ấy về làm bảo vệ, kiêm giữ toàn bộ con dấu và hồ sơ phòng tổ chức hành chính quản trị. Thiếu cán bộ chuyên trách công tác đoàn thanh niên CS HCM, ông Thìn còn được đảng bộ giao thêm trọng trách phó bí thư đoàn trường.

Lại nói tiếp cái vụ cá cược “quê Hải Dương” cuả bà Bạch Diệp ấy, tôi bị thua đau vì ông Phó bí thư đoàn trường quyền lực ấy đã nhận “đồng hương” chắc nịch với bà Bạch Diệp mất rồi. Đã bao lần tôi lân la bắt chuyện làm quen với cô Tâm – Bạch Diệp, nhưng không bao giờ tôi thực hiện được vì cô bận, cô đang ăn nên làm ra về nghệ thuật, nên cũng không mấy để ý tới những người mới vào nghề như tôi. Vả lại tôi cũng chẳng trông thấy cô Diệp về thăm làng bao giờ, mặc dù từ nhà cô ở cửa Đông mà ghé qua làng có chưa đầy mười lăm cây số.. Ấy thế mà tôi với cô là người cùng làng, lại cùng cơ quan suốt ba năm liền cơ đấy! Viết lại những dòng này, tôi chả có ý trách cứ gì cô Bạch Diệp cả. Vì trong thâm tâm từ lâu, tôi luôn thắc mắc, có thật cái gò cỏ may úi sùi vất vả quê tôi đã sản sinh ra người nghệ sỹ tài giỏi, có qúa trình sáng tác liên tục và bền bỉ đến như vậy hay không?

diep.jpg

Nữ đạo diễn Bạch Diệp. Ảnh: Tiền Phong.

Ông Phạm Văn Quyên, người đã học và làm ảnh nhiều năm tại tiệm hình của bố cô Bạch Diệp kể lại: “cô chính là ái nữ nhà cụ Nguyễn Văn Chành (tức Hai Chành), nhà ở phố Lai, sát đường quốc lộ 32, phía khu đồng Sau Hàng, ở phía bắc của làng. Ông Chành là địa chủ khét tiếng, vì dữ đòn với nhiều tá điền làm thuê. Nhưng kể từ khi theo học xong lớp nhiếp ảnh do cụ Khánh Ký đào tạo ở Hà nội trở về thì có nhiều thay đổi. Ông bán hết ruộng đất lấy tiền mở hiệu ảnh lớn tại thị xã Hải Dương, ông có công lớn nuôi dưỡng và chắp cánh cho người nghệ sỹ nhân dân nổi tiếng sau này”. 

Thôi thế là cũng may cho cụ Hai Chành, may cho cô Tâm đã “Hải Dương quê tôi” để thoát được trận đấu tố địa chủ thuở nào để hun đúc nên một Bạch Diệp, người nghệ sỹ tài giỏi, qúi hiếm của công chúng cả nước hôm nay.

Hai người em họ của ông Nguyễn Văn Chành, có phần còn nổi tiếng hơn nhiều trong làng nghề. Đó là các “bậc đại gia với thương hiệu Phúc Lai” như câu thuyết minh trong một phim tài liệu đã trình chiếu rộng rãi trên truyền hình VTV4. Mặc dù đều cùng lò đào tạo Khánh Ký ra cả nhưng anh hai em nhà cụ Phúc Lai hơn người chính là ở cái đầu. Từ hồi còn chăn trâu cắt cỏ ở làng tôi đã nghe đồn đại nhiều giai thoại về đại gia đình này. Mặc dù ít chữ, nhưng gia đình Phúc Lai thời hậu Khánh Ký tại Việt nam là không ai không biết vì có nhiều hiệu ảnh ăn khách nhất ở xứ Đoài – Sơn Tây, ở Hà Nội, ở Hải Phòng, ở Đông Triều – Quảng Yên.

Vốn xuất thân từ nông dân, ít học, vừa làm ruộng vừa làm ảnh. Thoạt đầu ông Phúc Lai ruớc thầy địa lý giỏi về đi khắp nơi tìm long mạch, tìm huyệt đất đắc địa, đặt mộ Tổ. Thấy tiềm lực và tầm cỡ của đại gia đình ông có cơ phát về học vấn, ông bán hết ruộng đất cò con tại làng, không tiếc tiền, đầu tư tất cả cho con cái đi học các trường Tây nổi tiếng nhất, tốn kém nhất. Ông muốn cái nhãn mác Phúc Lai sẽ nổi tiếng khắp nước không chỉ là nghề ảnh mà vươn lên tới những chân trời khoa học, kinh tế lớn phục vụ đắc lực cho quốc kế dân sinh. Ông đã mua một khu trang trại rộng hàng trăm Héc-ta đất đẹp ở Đông Triều – Quảng Yên gần khu trang viên cũ (Lục Yên) cuả Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thành lập đồn điền chăn nuôi các loại thú qúi hiếm, trồng rừng, săn bắn và hướng tới phát triển về du lịch sinh thái hấp dẫn khách thập phương.

Thầy tôi, lúc còn sống người đã từng học và là thợ ảnh kỳ cựu xuất sắc trong các tiệm hình cuả cụ Phúc Lai ở Hà Nội, Sơn Tây và Hải Phòng, cũng có xác nhận phần nào những huyền thoại này. Có lần ông nói nhỏ với tôi: “những người có cái nhìn xa trông rộng như cụ Đính (tên thật của cụ Phúc Lai) mà gặp thời thì phải biết. Ở cái làng mình, chả ai sánh được với cụ. Vụ đánh tư sản, diệt địa chủ khốc liệt năm nào đã phá tan biết bao dự định và ước mơ hoài bão của cụ. Bao nhiêu tài sản gom góp cả đời tiêu tan hết. Những năm cuối đời cụ cũng chẳng dám về làng, mà sống ẩn dật trong căn nhà cấp bốn cùng với một người con trai ở cái xóm lao động nghèo bên hồ Giảng võ lầm lụi ấy. Mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên mà “. Đó là những năm đất nước còn chưa thống nhất, lúc tôi vừa rời làng Lai ra Hà Nội học quay phim trường Điện ảnh. Vào tháng tư, năm 1973.

Mấy năm trở lại đây, qua báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng của đảng và nhà nuớc, tôi thấy nhiều lần nhắc tới tên của các nhà bác học đầu ngành về thiên văn và hoá học cuả Pháp là các giáo sư tiến sỹ Nguyễn Quang Riệu và Nguyễn Qúi Đạo. Đó là các nhà khoa học lớn tầm cỡ thế giới. Hai người anh em cuả họ, không sang Pháp mà học Y khoa trong nước, trong vùng tạm chiếm, sau này cũng thuộc lớp những con chim đầu đàn của ngành y tế nước ta đó là các giáo sư Nguyễn Quang Quyền và Nguyễn Quang Thành (giáo sư Thành là con cụ Phúc Lai Sơn Tây). Ba, bốn nhà khoa học lớn trên đều là con trai hai cụ Phúc Lai, đều do các cụ nuôi nấng chăm sóc nên người.

images654761_HXH.jpg

Cố GS Hoàng Xuân Hãn (phải) và GS Nguyễn Quang Riệu (trái) – Đài Thiên văn Paris – Meudon vào năm 1987-Nguồn: bee.net.vn

Thầy tôi biết khá kỹ cả bốn danh nhân nổi tiếng ấy ngay từ tấm bé, vì thời đó Thầy tôi học, làm ảnh và sống tại gia đình cụ Phúc Lai – Nguyễn Văn Đính thân thuộc như người trong một nhà. Mặt khác bà thím ruột của thầy tôi, cụ Lang Kiệu lại là người chị ruột hai cụ Phúc Lai. Và sau này cô Phạm Thị Qúi con gái rượu của cụ Lang Kiệu (Phạm Văn Khởi) lại là vợ cuả chú Hùng (bác sỹ Thành), một trong bốn nhà khoa học nổi tiếng đã nói ở trên. Ấy thế mà cho đến khi cụ Phúc Lai mất, tôi cũng chưa bao giờ được gặp cụ lần nào. Đơn giản cụ không bao giờ về làng nữa. Thảng hoặc nếu có, mà chốc nhát, đêm hôm (?) thì ai mà trông thấy được. Nghe thầy tôi nói, tướng mạo của cụ quắc thước lắm. Còn tiếng nói của cụ có âm vực vang như tiếng chuông. Đi đứng oai phong lẫm liệt.

Vậy mà:

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng… đành bó tay!

(Còn nữa)

Gocomay

___________________________

Gocomay's Blog

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ